Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

1Q84, Quyển 1, Chương 1 (finished) [Bản dịch mới]

1Q84

Haruki Murakami

BẢN DỊCH MỚI

(Dựa trên bản dịch tiếng Anh từ nguyên bản tiếng Nhật của Jay Rubin [Quyển 1, 2] và Philip Gabriel [Quyển 3]. (© Aaknof, 2011, ISBN-10: 0307593312). Đây là bản dịch được tác giả giới thiệu và đảm bảo để dịch sang các ngôn ngữ khác.

Nguyễn Trung Kiên dịch.
Kính mời anh chị em cùng tham gia hiệu đính.

     *


VÀI SUY NGHĨ CỦA NGƯỜI DỊCH
Tác phẩm 1Q84 đặt ra nhiều vấn đề lớn: về chủ nghĩa toàn trị và những hậu quả kinh khủng của nó với lịch sử; sự xung đột giữa tôn giáo và thế tục; sự bỉ ổi của các tôn giáo sống bám vào sự cuồng tín và ngu muội của con người; sự tha hóa của nghệ thuật trước một đám đông công chúng dễ dãi, lười biếng và hời hợt; vai trò của giới trí thức trong xã hội hiện đại; mâu thuẫn thế hệ và sự bất khả hòa giải của nó; nỗi đau khổ và sự cô đơn tột cùng của con người trước “biển người mênh mông” trong xã hội hiện đại; bi kịch của bạo hành gia đình; vai trò của giáo dục gia đình; vai trò của tự do giáo dục trong việc hoàn thiện nhân cách; những cái giá đắt không thể tưởng tượng nổi mà nước Nhật phải đánh đổi để đổi lấy cái gọi là "hiện đại"..., và trên hết, 1Q84 là bản trường ca, ca ngợi Tự do và Tình yêu lứa đôi.

Tôi vẫn tin rằng, những bi kịch mà dân tộc Nhật từng trải qua trong các thập niên trước sẽ là những bi kịch mà dân tộc Việt sẽ phải nếm trải trong những thập niên tới.

Như vậy, phải chăng 1Q84 là khúc "Chuông nguyện hồn ai" cho mỗi chúng ta? 

Và nếu đúng như thế, thì chúng ta nên và cần phải làm gì?
 *

QUYỂN I

Chương 1. Aomame
Đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa bạn

Radio trong xe taxi vừa chuyển sang chương trình âm nhạc cổ điển trên sóng FM. Bản nhạc Sinfonietta của Leoš Janáček đang được phát sóng này có vẻ không được lý tưởng cho lắm để thưởng thức trong xe taxi đang bị dòng xe cộ chật ních bao vây vì tắc đường. Bác lái xe đứng tuổi dường như cũng không chăm chú nghe nhạc. Miệng mím chặt, bác quan sát hàng xe dài dằng dặc đang nối đuôi nhau trên đường cao tốc trên cao, giống như một ngư phủ lão luyện đang đứng nơi mũi thuyền để cố tìm ra điểm hợp lưu đáng ngại của hai dòng nước. Aomame ngả hẳn người ra hàng ghế sau rộng rãi, nhắm mắt lại và lắng nghe bản nhạc.

Liệu có bao nhiêu người sau khi lắng nghe chỉ vài nhịp đầu tiên là đã có thể nhận ra ngay bản Sinfonietta của Janáček? Có thể đâu đó giữa “ít vô cùng” và “gần như không có”. Nhưng vì lý do nào đó, Aomame là một trong số ít người có thể làm được điều này.

Janáček sáng tác bản giao hưởng nhỏ này vào năm 1926. Đầu tiên, ông viết khúc dạo đầu với hình thức hợp tấu giữa kèn đồng và trống để dành cho một đại hội thể dục. Aomame mường tượng ra nước Cộng hòa Tiệp Khắc vào năm 1926: Đại chiến Thế giới lần thứ nhất đã kết thúc, và đất nước được giải phóng khỏi ách thống trị dài lâu của vương triều Habsburg. Như để nhiệt tình hưởng thụ khoảng thời gian hòa bình ngắn ngủi lướt qua vùng Trung Âu, người dân uống bia Pilsner trong các quán café và sản xuất ra những khẩu súng máy nhẹ bỗng đẹp đẽ. Hai năm trước, Franz Kafka đã qua đời trong sự quên lãng hoàn toàn. Không lâu sau, Hitler từ xó xỉnh nào đó đột ngột xuất hiện và thôn tính đất nước nhỏ bé xinh đẹp này trong chớp mắt, nhưng vào thời điểm ấy không một ai biết được điều tồi tệ sắp xảy ra với họ. Đó có lẽ là một luận đề quan trọng nhất của lịch sử: “Vào thời điểm ấy, không ai biết được tương lai sẽ xảy ra chuyện gì”. Lắng nghe âm nhạc của Janáček, Aomame mường tượng đến những ngọn gió vô tư lự thổi dọc bình nguyên Bohemia và suy tưởng về những thăng trầm của lịch sử.

 Năm 1926, Thiên hoàng Taisho của Nhật Bản băng hà, tên gọi của một kỷ nguyên mới được cải thành Showa. Đó cũng là điểm khởi đầu cho một thời đại tồi tệ, tăm tối của đất nước. Khoảnh khắc ngắn ngủi của chủ nghĩa hiện đại và nền dân chủ đang kết thúc, nhường chỗ cho chủ nghĩa phát-xít.

Aomame yêu lịch sử cũng nhiều như với thể thao. Nàng hiếm khi đọc tiểu thuyết, nhưng sách lịch sử đã ngốn của nàng rất nhiều thời gian. Điều khiến nàng thích thú với lịch sử là, tất cả sự việc về cơ bản đều được liên kết với những ngày tháng và địa điểm cụ thể. Nàng không gặp khó khăn gì trong việc ghi nhớ các mốc lịch sử. Kể cả không thuộc lòng những con số đó bằng cách học vẹt, nhưng ngày tháng sẽ tự động hiện lên trong trí óc khi nắm được mối quan hệ trước sau của các sự kiện lịch sử. Thời học cấp hai và cấp ba, điểm thi môn lịch sử của Aomame lúc nào cũng cao nhất lớp. Mỗi khi nghe người khác nói rằng họ thật khó khăn để ghi nhớ các mốc lịch sử, nàng đều cảm thấy khó hiểu. Sao chuyện đơn giản như vậy mà cũng không làm được nhỉ?

Aomame là tên thật của nàng. Ông nội nàng đến từ cái nơi chẳng biết nên gọi là thị trấn nhỏ hay ngôi làng nhỏ vùng cao của tỉnh Fukishima, nơi mà nghe nói đúng là có mấy người mang tên Aomame, vốn được viết với các ký tự giống như từ “đậu xanh” và phát âm với bốn nguyên âm, “Ah-oh-mah-meh”. Nhưng nàng chưa bao giờ đến đó. Từ trước khi nàng sinh ra, cha nàng đã cắt đứt quan hệ với ông bà nội. Bên ngoại nhà nàng cũng vậy. Vì thế, Aomame chưa một lần được gặp ông bà nội ngoại. Nàng đi du lịch không nhiều, nhưng trong những lần hiếm hoi được đi đây đi đó, như đã thành thói quen, lúc nào nàng cũng lật tìm trong cuốn danh bạ điện thoại của khách sạn, xem có ai mang tên Aomame hay không. Cho đến giờ nàng vẫn chưa phát hiện ra người nào mang tên Aomame ở bất cứ thành phố hay thị trấn nào nàng từng ghé chân, và mỗi lần như vậy, nàng đều có cảm giác như mình là một kẻ đắm tàu cô độc giữa đại dương mênh mông.

Lúc nào nàng cũng cảm thấy việc xưng tên thật phiền phức. Mỗi lần nàng nói tên mình, người đối diện liền nhìn nàng chằm chặp bằng ánh mắt bối rối hoặc ngờ vực. 

“Cô Aomame?”. 

 “Vâng. Giống như ‘Đậu Xanh’ ấy ạ.” 

Thời còn làm ở công ty, khi người quản lý yêu cầu nàng lúc nào cũng phải mang theo danh thiếp, thì lại càng phiền phức hơn. Người ta cầm danh thiếp của nàng rồi chăm chú đọc trong giây lát, cứ như bất ngờ nhận được tin dữ. Khi nàng xưng tên qua điện thoại, nàng thường nghe thấy tiếng cười cố nén. Những khi ở trong phòng chờ của bệnh viện hay công sở, lúc tên nàng được gọi đến, mọi người đều sẽ ngẩng đầu lên, tò mò muốn xem thử người được gọi là “Đậu xanh” này trông như thế nào.

Một số người nhầm lẫn giữa tên gọi của các loại đậu còn gọi nàng là “Edamame” (Đậu nành) hay “Soramame” (Đậu tằm), và mỗi lần như thế, nàng đều mất công đính chính: “Không, tôi không phải là Đậu nành hay Đậu tằm, mà là Đậu xanh. Mặc dù rất giống nhau. Aomame”. Trong suốt ba mươi năm đời mình, không hiểu nàng đã biết bao lần chứng kiến sự nhầm lẫn hay trêu đùa vì cái tên này của mình. Nếu sinh ra không mang tên này, đời mình có lẽ đã khác nhiều. Nếu mang những cái tên bình thường như Sato, Tanaka hay Suzuki, có thể mình sẽ có một cuộc sống nhẹ nhàng và dễ chịu hơn, hoặc đánh giá mọi người với ánh mắt bao dung hơn. Có thể.

Aomame nhắm mắt lại, lắng nghe bản nhạc, để âm thanh tuyệt hảo của hợp tấu kèn đồng và trống đáng yêu này thấm vào tâm tưởng. Sau đó, đột nhiên nàng nhận thấy rằng, chất lượng âm thanh của radio trên xe taxi này rất tốt. Mặc dù âm lượng khá nhỏ nhưng âm thanh sâu, nghe rõ được cả các âm bồi. Nàng mở mắt, nhổm người về phía trước, quan sát dàn âm thanh nổi. Cả dàn máy đều một màu đen tuyền bóng lộn đầy tự hào. Tuy nàng không thấy rõ thương hiệu, nhưng chỉ nhìn qua cũng biết là hàng cao cấp, với rất nhiều nút bấm và công tắc, những con số màu xanh hiện lên rõ ràng trên màn hình điều khiển màu đen. Đây không phải là loại dàn âm thanh mà bạn kỳ vọng sẽ được nhìn thấy trên một chếc xe taxi thông thường.

Nàng nhìn khắp nội thất của chiếc xe. Từ lúc bước lên xe đến giờ, nàng mải đắm chìm với những suy nghĩ của mình nên không để ý lắm. Đây không phải là xe taxi thông thường. Đồ trang trí toàn hàng chất lượng cao, và chỗ ngồi cũng đặc biệt thoải mái. Hơn nữa, trong xe rất yên tĩnh. Chiếc xe hẳn có khả năng cách âm hoàn hảo, tạp âm bên ngoài gần như không lọt vào được, giống như đang ngồi trong phòng thu cách âm vậy. Người lái xe hẳn đang sở hữu xe riêng của mình. Trong giới lái xe taxi tư ấy, cũng có người không tiếc tiền trang bị cho xe. Nàng khẽ đảo mắt, tìm kiếm giấy phép hành nghề lái xe taxi mà không thấy. Nhưng đây cũng không giống loại xe dù bất hợp pháp. Trên xe có lắp đặt đồng hồ tính tiền đạt tiêu chuẩn, hiển thị rõ ràng chuẩn xác số tiền xe, giờ đang là 2.150 yên. Tuy vậy, cái giấy phép hành nghề taxi có ghi tên lái xe thì lại chẳng thấy đâu.

“Xe tốt quá.” Aomame bắt chuyện từ chỗ ngồi sau lưng bác lái xe. “Yên tĩnh thật. Loại xe gì vậy bác?”

“Xe Crown, dòng Royal Saloon của Toyota,” bác lái xe trả lời ngắn gọn.

“Tiếng nhạc ở đây nghe tuyệt lắm.”

“Đây là loại xe rất yên tĩnh. Đó cũng là lý do để bác chọn nó đấy. Hãng Toyota đang sở hữu công nghệ cách âm nhất nhì thế giới”.

Aomame gật gật đầu rồi dựa hẳn người ra phía sau. Kiểu nói chuyện của bác lái xe khiến nàng cảm thấy hơi nghi hoặc, như bác thường để lại một vài điểm quan trọng, không nói ra hết. Ví dụ (và đây chỉ là một ví dụ thôi), bác khẳng định về cách âm thì đúng là không thể chê xe Toyota được, nhưng những chỗ khác thì không hẳn là không có vấn đề. Mỗi lần bác nói dứt câu, vẫn còn vương lại sau đó một khối im lặng đầy ẩn ý. Trong không gian chật chội của xe, khối im lặng ấy trôi nổi tựa như một đám mây tưởng tượng nhỏ bé, làm Aomame cảm thấy bứt rứt không yên một cách lạ lùng.

“Đúng là một chiếc xe yên tĩnh,” nàng tỏ ý đồng tình, như thể muốn xua đám mây nhỏ ấy đi. “Dàn âm thanh hình như cũng thuộc loại có chất lượng đặc biệt?”

“Lúc mua bác đã phải rất quyết đoán đấy,” bác lái xe nói, giọng điệu nghe như một sĩ quan tham mưu đã giải ngũ đang kể lại một chiến tích trong quá khứ, “bác dành quá nhiều thời gian ngồi trong này, nên muốn có chất lượng âm thanh càng cao càng tốt. Và…”

Aomame đợi bác lái xe nói tiếp, nhưng bác không nói gì thêm. Nàng lại nhắm mắt và tập trung lắng nghe bản nhạc. Aomame không hề biết Leoš Janáček là người như thế nào, nhưng nàng khá chắc chắn rằng ông không thể ngờ bản nhạc do mình sáng tác lại được người nào đó lắng nghe bên trong một chiếc Toyota Crown Royal Saloon yên tĩnh trên đường cao tốc trên cao của Thủ đô đang tắc nghẽn nghiêm trọng ở Tokyo vào năm 1984.

Mặc dù vậy, tại sao Aomame có thể vừa nghe là đã nhận ra đây là bản Sinfonietta của Janáček? Và bằng cách nào mà nàng biết bản nhạc này được viết vào năm 1926? Nàng không phải người yêu nhạc cổ điển, mà cũng không hề có ký ức nào về Janáček, vậy mà, vừa nghe thấy vài nhịp mở đầu của bản nhạc, chỉ trong chớp mắt các thông tin liên quan đến nó liền hiện lên trong tâm trí của nàng, như một bầy chim bay ùa vào phòng qua ô cửa sổ rộng mở. Bản nhạc đã gây ra cho Aomame một cảm giác kỳ lạ, như thể bị “vặn xoắn” vậy. Không đau đớn hay khó chịu, chỉ là một cảm giác rằng tất cả các mô trong cơ thể nàng dường như đang bị vắt kiệt về mặt thể chất. Aomame không thể hiểu được điều gì đang diễn ra. Lẽ nào bản Sinfonietta lại có thể mang đến cho mình thứ cảm giác kỳ lạ này?

“Janáček,” Aomame buột miệng thốt ra trong vô thức. Lời vừa ra khỏi miệng, nàng đã hối hận, giá như nàng đã không nói.

“Gì cơ, cô gái trẻ?”

“Janáček. Người viết bản nhạc này.”

“Bác chưa bao giờ nghe đến cái tên này.”

“Nhà soạn nhạc người Tiệp Khắc”.

“À, à”, bác lái xe nói, vẻ khâm phục.

“Xe này của bác phải không ạ?”, Aomame hỏi, hi vọng chuyển sang chủ đề khác.

“Đúng vậy,” bác lái xe trả lời. Ngừng một lát, bác nói thêm: “Một mình bác làm thôi. Chiếc xe thứ hai của bác.”

“Chỗ ngồi dễ chịu lắm.”

“Cám ơn cháu, cô gái trẻ”, bác lái xe hơi nghiêng đầu về phía nàng, nói: “Nhưng mà, cháu đang vội phải không?”

“Cháu có hẹn ở Shibuya. Vì vậy mới phiền bác chạy theo đường cao tốc.”

“Cuộc hẹn của cháu vào lúc mấy giờ?”

“Bốn giờ rưỡi,” Aomame đáp.

“Ồ, giờ là bốn giờ kém mười lăm rồi. Cháu sẽ không đến kịp đâu.”

“Tắc đường nghiêm trọng thế sao?”

“Trông giống như có tai nạn lớn ở phía trước rồi. Không phải tắc đường bình thường đâu. Từ nãy tới giờ chúng ta hầu như chẳng nhúc nhích được chút nào.”

Nàng băn khoăn tại sao bác lái xe này lại không nghe tin tức giao thông. Đường cao tốc bị tắc nghẽn. Bác ấy nên nghe để cập nhập tình hình qua kênh đặc biệt dành riêng cho lái xe taxi mới phải chứ.

“Bác không nghe tin tức giao thông cũng biết được phía trước có tai nạn ạ?”, nàng hỏi.

“Cháu không thể tin được cái kênh giao thông ấy đâu,” ông nói, giọng phảng phất vẻ xa xăm. “Phải đến một nửa là dối trá. Công ty Đường cao tốc chỉ phát những tin tức phù hợp với họ thôi. Nếu cháu thực sự muốn biết điều gì đang xảy ra ở đây, cháu chỉ có thể vào cặp mắt của mình để quan sát, dựa vào bộ óc của mình để phán đoán thôi.”

“Và theo phán đoán của bác thì chúng ta sẽ bị kẹt ở đây ư?”

“Không nhanh được đâu,” bác lái xe gật đầu. “Bác đảm bảo đấy. Mỗi lần tắc nghẽn nặng như thế này, đường cao tốc thật sự là địa ngục. Cuộc hẹn của cháu quan trọng lắm không?”

Aomame nghĩ ngợi giây lát. “Vâng. Quan trọng lắm ạ. Cháu phải đi gặp mặt khách hàng.” 

 “Vậy thì gay đấy. Chắc là cháu không đến kịp được rồi.”

Nói xong, bác lái xe khẽ lắc cái cổ mấy lượt như muốn làm mềm các cơ thịt đang căng cứng. Các nếp nhăn sau gáy của bác nhúc nhích tựa như một loài sinh vật cổ đại. Nhìn động tác ấy trong vô thức, Aomame chợt nhớ đến vật thể sắc bén nhọn hoắt ở dưới đáy chiếc túi đeo chéo qua vai. Lòng bàn tay của nàng rịn ra lấm tấm mấy giọt mồ hôi.

“Vậy theo bác, cháu nên làm gì bây giờ?”, nàng hỏi.

“Cháu chẳng thể làm được gì trên đường cao tốc này cho tới khi chúng ta đến được lối ra tiếp theo. Giá như bị tắc đường ở trong phố, thì thì cháu còn có thế ra khỏi xe và bắt tàu điện ngầm”.

“Lối ra tiếp theo ở đâu vậy bác?”

“Ikejiri. Không khéo phải đến chiều muộn mới tới được đó ấy chứ.”

Đến tận chiều muộn ư? Aomame tưởng tượng tình cảnh mình bị nhốt trong chiếc xe taxi này đến tận chiều muộn. Bản nhạc của Janáček vẫn tiếp tục được trình tấu. Những âm bịt dây vang lên như thể muốn vỗ về tâm trạng căng thẳng. Cảm giác bị vặn xoắn từ trước giờ đã dịu đi rất nhiều. Cảm giác đó có thể là gì?

Aomame đã bắt taxi ở gần Kinuta và khi đến Yohga đã nói với bác lái xe đi lên tuyến số ba của đường cao tốc trên cao. Ban đầu dòng xe cộ còn thông thoáng, nhưng lúc sắp đến Sangenjaya thì đột nhiên tắc đường, sau đó thì hầu như không thể nhúc nhích được nữa. Xe ở làn đường đi ra ngoại ô vẫn thông suốt. Chỉ có làn đường đi vào trung tâm Tokyo này bị tắc khủng khiếp. Thông thường, sau ba giờ chiều làn giao thông hướng vào trung tâm của Tuyến đường số Ba không hay bị tắc nghẽn, vì vậy Aomame mới bảo bác lái xe chạy theo đường này.

“Thời gian chờ trên đường cao tốc không bị tính thêm phí đâu,” bác lái xe hướng vào gương chiếu hậu mà nói. “Vậy nên cháu không cần lo chuyện tiền xe. Nhưng bác tin là cháu cần đến chỗ hẹn, phải vậy không?”

“Vâng, chắc chắn rồi ạ. Nhưng bác vừa nói là không có cách gì đấy thôi?”

Bác lái xe liếc nhìn Aomame trong gương chiếu hậu. Bác đeo kính râm sáng màu. Vì ánh sáng trong gương không đủ, nên Aomame không thể đoán được cảm xúc của bác.

“Ồ, thật ra, vẫn có cách đấy. Cháu có thể bắt tàu điện ngầm từ đây để tới Shibuya, nhưng cháu phải làm một việc tương đối… cực đoan”.

“Một việc tương đối cực đoan ư?”

“Đây không phải là việc mà bác có thể mạnh dạn khuyến khích cháu thực hiện”.

Aomame không nói lời nào, nheo nheo mắt đợi bác lái xe nói tiếp.

“Cháu nhìn kìa. Có nhìn thấy khoảng trống để dừng xe khẩn cấp ở ngay phía trước đó không?”, ông chỉ về phía trước và nói, “Thấy không? Gần tấm biển quảng cáo của Esso đó.”

Aomame tập trung nhìn qua tấm kính chắn gió và thấy bên trái con đường hai làn xe có một khoảng không gian trống dành cho các xe gặp sự cố tạm thời dừng đỗ. Đường cao tốc trên cao ở Thủ đô không có vai đường, vì vậy có khá nhiều chỗ để dừng xe khẩn cấp như thế. Aomame còn nhìn thấy một bốt điện thoại khẩn cấp màu vàng dùng để liên lạc với Văn phòng Công ty Công cộng Đường cao tốc Thủ đô. Lúc này, không có xe nào dừng ở khoảng trống đó cả. Sát bên cạnh làn xe chạy theo chiều ngược lại, trên nóc tòa nhà ven lề đường là tấm biển quảng cáo lớn của Công ty xăng dầu Esso, vẽ một chú hổ đang toét miệng cười, tay cầm vòi bơm xăng.

“Nói thật với cháu, chỗ ấy có cầu thang dẫn xuống phố ở bên dưới. Nó dành cho các lái xe leo xuống phố dưới khi gặp phải hỏa hoạn hay động đất mạnh. Bình thường thì chỉ các công nhân sửa đường mới sử dụng nó. Nếu cháu có thể leo xuống cái cầu thang đó, cháu sẽ ở rất gần với Ga tàu điện tuyến Tokyo. Từ đó, có thể đến Shibuya dễ dàng.”

“Cháu quả thật không biết trên đường cao tốc Thủ đô lại có cầu thang thoát hiểm đấy,” Aomame nói.

“Không nhiều người biết đâu.”

“Nhưng giờ không phải tình huống khẩn cấp, nếu tự tiện leo xuống cầu thang ấy liệu có vấn đề gì không?”

Bác lái xe im lặng giây lát. Sau đó ông nói: “Ừ, bác cũng băn khoăn. Bác không rõ tất cả quy định của cái Công ty ấy, nhưng làm vậy cũng đâu có phiền ai. Những quy định ấy cũng có thể nhìn nhận dưới góc độ khác, cháu thấy đúng không? Huống chi, ở chỗ đó lại không có ai giám sát. Mặc dù Công ty Công cộng Đường cao tốc Thủ đô rất đông nhân viên, nhưng người thực sự làm việc thì lại thật ít ỏi.”

“Cái cầu thang ấy trông thế nào ạ?”

“À, nó rất giống với thang thoát hiểm hỏa hoạn. Cháu biết đấy, chính là loại thang vẫn hay thấy ở đằng sau các tòa nhà cao tầng kiểu cũ ấy. Không có gì đặc biệt nguy hiểm đâu. Nó cao khoảng ba tầng nhà, và cháu có thể trèo xuống được. Lối vào có một cái rào chắn, nhưng không cao lắm. Ai cũng có thể trèo qua mà không gặp khó khăn gì.”

“Bác đã từng sử dụng một trong những cái thang nhưng vậy chưa ạ?”

Thay vì trả lời, qua gương chiếu hậu, chỉ thấy bác lái xe chỉ mỉm một nụ cười điềm đạm ẩn chứa nhiều ngụ ý.

“Tự cháu quyết định thôi”, bác lái xe gõ nhẹ đầu ngón tay lên tay lái theo điệu nhạc và nói: “Cháu cứ ngồi ở đây mà thưởng thức âm nhạc, bác chẳng nề hà gì. Đằng nào thì dù cố gắng mấy thì bác cháu ta cũng không thể sớm thoát thân khỏi đây được rồi. Bác chỉ muốn nói là, nếu cháu có chuyện gấp, thì cũng không phải là không có biện pháp khẩn cấp.”

Aomame nhíu mày và liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Nàng ngẩng đầu lên nhìn những chiếc ô-tô xung quanh. Bên phải là một chiếc Mitsubishi Pajero màu đen phủ một lớp bụi mỏng màu trắng. Anh thanh niên với vẻ buồn chán đang ngồi hút thuốc lá bên ghế lái phụ, kính xe đang mở. Anh để tóc dài, khuôn mặt rám nắng, khoác chiếc áo gió màu đỏ sẫm. Trong khoang chứa đồ chất mấy tấm ván lướt sóng mòn vẹt. Phía trước nữa là một chiếc Saab 900 màu xám, cửa sổ kính màu đóng im ỉm, không thể nhìn rõ người ngồi bên trong. Thân xe bóng loáng đến nỗi có thể soi gương được nếu lại gần.

Phía trước chiếc taxi Aomame đang ngồi là một chiếc Suzuki Alto màu đỏ đeo biển số quận Nerima, có một vết lõm trên thanh chắn bùn phía sau. Một người mẹ trẻ tì sát người vào tay lái, đứa bé buồn chán đứng trên ghế, vặn vẹo hết bên này đến bên kia. Bà mẹ dường như đang bực bội nhắc nhở đứa bé. Aomame có thể thấy môi bà ấy mấp máy. Quang cảnh này cứ y nguyên vậy dễ đã được mười phút. Trong mười phút này, chiếc xe e rằng không nhích được quá mười mét.

Aomame suy đi tính lại, trong đầu sắp xếp lại mọi thứ theo thứ tự ưu tiên. Nàng không mất nhiều thời gian để có được kết luận. Lúc này, vừa khéo, bản nhạc của Janáček cũng đã đến đoạn cuối cùng.

Nàng lấy cặp kính râm nhỏ hiệu Ray-Ban trong túi đen vai ra, rồi rút trong ví ra ba tờ một nghìn yên. Đưa tiền cho bác lái xe, nàng nói: “Cháu sẽ xuống xe ở đây thôi. Cháu thật sự không thể đến muộn trong cuộc hẹn này được.”

Bác lái xe gật đầu và nhận tiền. “Cháu có cần hóa đơn không?”

“Không cần đâu ạ. Bác cũng không cần trả lại tiền thừa đâu.”

“Cám ơn cháu nhiều,” bác nói. “Cẩn thận nhé, hình như gió lớn lắm đấy. Đừng để bị trượt chân.”

“Cháu sẽ cẩn thận,” Aomame đáp.

“Và, còn nữa,” bác lái xe nhìn vào gương chiếu hậu nói, “hãy nhớ: sự vật, hiện tượng không giống vẻ bề ngoài của nó đâu.”

Sự vật, hiện tượng không giống vẻ bề ngoài của nó. Aomame lặp lại một lần trong óc, hơi nhướng mày lên, hỏi: “Bác nói vậy là có ý gì ạ?”

Bác lái xe đắn đo câu chữ rồi trả lời: “Đó chỉ là, giờ cháu sắp đi làm một việc khác thường. Chẳng phải vậy sao? Giữa ban ngày, trèo xuống theo lối thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ đô, người bình thường không làm những chuyện như vậy. Phụ nữ lại càng không.”

“Có lẽ bác đúng”.

“Vậy đấy. Và sau khi làm chuyện gì đó giống như vậy, những quang cảnh thường ngày cháu nhìn thấy sẽ thay đổi một chút. Sự vật, hiện tượng có thể hơi khác so với cái mà cháu từng thấy. Bác cũng đã từng có trải nghiệm như vậy rồi. Nhưng mà, đừng để những vẻ bề ngoài đánh lừa cháu. Sẽ luôn chỉ có một hiện thực mà thôi.”

Aomame nghĩ ngợi về những điều bác lái xe vừa nói. Trong lúc nàng mải suy nghĩ, bản nhạc của Janáček cũng vừa kết thúc và khán giả vỡ òa trong tiếng vỗ tay không ngớt. Đó có thể là buổi thu thanh trực tiếp. Trong tiếng vỗ tay nhiệt liệt kéo dài, thoảng còn nghe thấy cả tiếng reo “hoan hô” nữa. Aomame tưởng tượng ra người nhạc trưởng đang mỉm cười cúi mình mấy lượt trước các khán giả đang đứng vỗ tay. Ông ngẩng mặt lên, giơ cao tay, bắt tay nghệ sĩ violin một, rồi xoay lưng về phía khán giả, lại giơ hai cánh tay lên cao khen ngợi toàn thể dàn nhạc, tiếp đó ông lại quay về phía khán giả, lại cúi mình thật sâu thêm một lần nữa. Nghe một lúc lâu, dần dần nàng cảm giác đó không phải là tiếng vỗ tay nữa mà giống như âm thanh dai dẳng không dứt của một trận bão cát trên sao Hỏa.

“Như bác nói, hiện thực lúc nào cũng luôn chỉ có một mà thôi,” bác lái xe chầm chậm lặp lại, như thể đang gạch chân đoạn quan trọng trong một cuốn sách.

“Đương nhiên rồi,” Aomame đáp. Đúng như lời bác lái xe nói. Một vật thể, trong một thời điểm, chỉ có thể tồn tại ở một địa điểm. Điều này đã được Einstein chứng minh. Hiện thực bao giờ cũng vô cùng bình tĩnh và vô cùng cô độc.

Aomame chỉ vào dàn âm thanh trên xe. “Chất lượng âm thanh tốt lắm.”

Bác lái xe gật đầu. “Cái ông viết bản nhạc này tên là gì ấy nhỉ?”

“Janáček.”

“Janáček,” bác lái xe nhắc lại, tựa hồ như đang ghi nhớ một mật mã quan trọng. Sau đó, ông gạt cái lẫy mở cửa sau. “Hãy cẩn thận nhé,” ông nói, “bác hy vọng cháu đến kịp giờ hẹn.”

Aomame bước xuống xe, tay nắm chặt quai túi xách đeo vai bằng da to tướng. Tiếng vỗ tay vẫn vang lên không ngớt. Nàng cẩn thận men theo lề đường cao tốc về phía chỗ dừng đỗ xe khẩn cấp cách đó chừng mười mét. Mỗi khi làn đường ngược chiều có xe tải lớn chạy qua, nàng cảm thấy mặt đường lại khe khẽ rung lên dưới đôi giày cao gót của mình, tựa như những con sóng, như thể nàng đang bước đi trên mặt boong một chiếc hàng không mẫu hạm đang lênh đênh giữa biển khơi bão tố.

Cô bé ngồi trên ghế trước của chiếc Suzuki Alto màu đỏ thò đầu ra khỏi cửa sổ bên ghế phụ, miệng há hốc, nhìn Aomame đi qua. Sau đó, cô bé ngoảnh lại hỏi mẹ: “Mẹ ơi, cô kia đang làm gì thế? Cô ấy đi đâu thế? Con cũng muốn ra ngoài và đi cùng. Đi mẹ! Điiiiii!” Nhưng bà mẹ chỉ đáp lại lời năn nỉ bằng sự im lặng, lắc đầu và liếc nhìn Aomame với ánh mắt trách móc. Lời cầu xin của cô bé và cái liếc nhìn của người mẹ là những phản ứng ít ỏi mà Aomame tiếp nhận được. Những người lái xe khác đều chỉ ngồi ở tay lái và hút thuốc, nhìn theo nàng đang không hề do dự bước đi giữa hàng xe dài dằng dặc và bức rào chắn giữa hai làn đường, như thể đang nhìn một vật thể gì đó chói mắt. Dường như họ không nôn nóng phán đoán. Dẫu xe không thể nhúc nhích, nhưng hàng ngày người ta cũng không thường thấy có người đi bộ trên đường cao tốc Thủ đô, vì vậy cần có thời gian để tri giác chấp nhận nó như một hiện thực. Và hơn nữa, người đi bộ ấy còn là một cô gái trẻ mặc váy ngắn, chân đi giày cao gót.

Aomame thu cằm nhìn về phía trước, lưng ưỡn thẳng, bước đi đầy quả quyết. Đôi giày cao gót hiệu Charles Jourdan màu hạt dẻ gõ xuống mặt đường tạo nên những âm thanh khô khốc, vạt áo khoác ngoài tung bay trong gió nhẹ. Đã vào tháng Tư, nhưng vẫn có những gió lạnh, như thể bên trong chúng ẩn chứa một dự cảm hung bạo. Aoame khoác chiếc áo gió màu be bên ngoài bộ vest dạ mỏng màu xanh hiệu Junko Shimada. Vai nàng đeo túi da đen, mái tóc xõa ngang vai được cắt tỉa rất gọn gàng, chăm sóc kỹ lưỡng. Aomame không đeo bất kỳ đồ trang sức nào. Cao một mét sáu tám, nàng không có lấy một chút thịt thừa. Mọi cơ bắp đều đã được tập luyện công phu, thế nhưng điều đó đang được ẩn giấu dưới lần áo gió.



Nếu tỉ mỉ quan sát gương mặt nàng từ chính diện, người ta sẽ phát hiện ra kích cỡ hai tai nàng có sự khác biệt rất lớn. Tái trái to hơn hẳn tai phải, và hình dạng cũng hơi méo mó. Nhưng không ai để ý đến điều này, vì đôi tai luôn ẩn trong mái tóc. Cái miệng lúc nào cũng mím chặt thành một đường thẳng, thể hiện một tính cách không dễ gần. Chiếc mũi nhỏ nhắn, xương gò má hơi nhô lên, vầng trán rộng, đôi lông mày dài và thẳng, mỗi nét lại thêm một lần bổ sung cho tính cách ấy. Nhưng gương mặt trái xoan cũng khá cân đối. Tuy rằng sở thích mỗi người mỗi khác, nhưng về cơ bản có thể nói nàng là một phụ nữ đẹp. Vấn đề là nét mặt Aomame hầu như không có biểu cảm gì. Cặp môi mím chặt ấy, trừ trường hợp bất đắc dĩ, còn thì tuyệt đối không hé một nụ cười. Đôi mắt lạnh lùng và chăm chú như một giám sát viên xuất sắc trên boong tàu. Vì vậy, gương mặt nàng hoàn toàn không để lại cho người khác một ấn tượng gì rõ rệt. Trong rất nhiều trường hợp, vẻ tự nhiên và sự lịch lãm trong những cử động của nét mặt còn thu hút sự chú ý và quan tâm của người khác nhiều hơn sự xấu đẹp của gương mặt trong trạng thái bất động. Hầu hết mọi người đều không nắm bắt được tướng mạo của Aomame. Chỉ cần rời ánh mắt di chỗ khác là không thể miêu tả được gương mặt nàng trông như thế nào nữa. Nói cho đúng, gương mặt của Aomame chắc chắn là gương mặt có cá tính, nhưng không hiểu sao những đặc trưng của từng chi tiết lại không hề để lại ấn tượng gì trong tâm trí người khác. Theo nghĩa đó, nàng giống như một loài côn trùng ngụy trang. Thay đổi màu sắc và hình dạng để hòa lẫn vào môi trường xung quanh, cố gắng không làm người khác chú ý, không để người khác có thể dễ dàng nhớ đến mình, đây chính là điều mà Aomame mong muốn. Từ bé, nàng đã tự bảo vệ mình theo cách ấy.

Nhưng nếu vì lý do nào đó khiến Aomame phải cau mày nhăn mặt, thì gương mặt lạnh lùng của nàng sẽ thay đổi đột ngột. Cơ mặt sẽ co rúm lại theo các hướng khác nhau, khiến cho sự méo mó của hai bên má bị cường điệu đến cùng cực. Những nếp nhăn hằn sau ở nhiều chỗ, đồng tử vội vã thu lại, mũi và miệng biến dạng một cách thô bạo, cái cằm vẹo đi, môi vểnh lên, để lộ những chiếc răng to trắng. Ngay lúc ấy, nàng trở thành một con người hoàn toàn khác, như thể chiếc dây buộc bị đứt làm tuột ra chiếc mặt nạ mà bình thường vẫn che phủ khuôn mặt nàng. Sự thay đổi đáng bất ngờ này khiến bất kỳ ai chứng kiến cũng cảm thấy sợ hãi, vì vậy nàng luôn cẩn thận, không bao giờ cau mày trước người lạ. Nàng chỉ nhăn nhó khi ở một mình, hoặc lúc đe dọa gã đàn ông khiến nàng khó chịu.

Đến được chỗ đỗ xe khẩn cấp, nàng dừng bước và nhìn quanh. Chỉ một lát sau, nàng đã tìm thấy cái thang thoát hiểm ấy. Đúng như bác lái xe đã nói, lối vào cầu thang có một hàng rào chắn. Cái hàng rào này cao quá hông một chút, cửa đang bị khóa chặt. Trèo qua hàng rào sắt này trong khi đang mặc váy ngắn bó sát người sẽ không thành vấn đề nếu nàng bỏ qua việc đang bị người khác chú ý. Không chút ngần ngại, nàng tuột đôi giày cao gót ra và nhét vào túi đeo vai. Nàng có thể làm hỏng mất cái quần tất của mình khi đi chân trần, nhưng nàng có thể dễ dàng mua lại cái khác.

Mọi người lặng lẽ theo dõi nàng cởi giày cao gót và áo khoác ngoài. Vẳng ra từ trong cửa sổ để mở của chiếc Toyota Celia màu đen dừng ngay phía trước, tiếng hát cao vút của Michael Jackson trong bài Billie Jean như đang giúp nàng làm nhạc nền cho cảnh tượng đó. Nàng thấy mình như thể đang trình diễn một tiết mục múa thoát y vậy. Thì sao sao? Cứ để họ ngắm cho thỏa thích. Hẳn họ phải đang mệt mỏi chờ đợi cảnh tắc đường này kết thúc. Mặc dù vậy, xin lỗi quý vị, hôm nay tôi chỉ cởi bỏ đến đây thôi nhé.

Aomame xốc lại túi lên vai cho khỏi rơi. Chiếc Toyota Crown Royal Salon nàng vừa ngồi vẫn ở đằng xa, dưới ánh nắng chiếu rực rỡ, tấm kính chắn gió phản chiếu những tia sáng chói mắt như một tấm gương. Nàng không nhìn rõ mặt bác lái xe, nhưng nàng biết rằng chắc chắn bác ấy đang nhìn về phía này.

Đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa bạn. Sẽ luôn chỉ có một hiện thực mà thôi.

Aomame hít vào một hơi dài và sâu, rồi thở ra từ từ. Sau đó, nàng dỏng tai lắng nghe tiết tấu của Billie Jean, rồi leo qua hàng rào sắt. Chiếc váy ngắn bị vén lên đến tận hông. Thì sao nào? Cứ cho họ thấy tất cả những gì họ muốn thấy. Dù nhìn thấy cái bên trong váy, họ cũng đừng mơ nhìn thấu được con người mình. Dù sao, đôi chân chính là phần cơ thể khiến Aomame cảm thấy tự hào nhất.

Sang đến bên kia hàng rào sắt, Aomame sửa lại vạt váy, phủi bụi trên tay, mặc lại áo khoác, đeo lại túi xách qua vai, đẩy gọng kính râm lên một chút. Cầu thang thoát hiểm đã ở ngay phía trước mặt nàng - một cầu thang sắt sơn màu ghi. Loại cầu thang đơn giản, thiết thực, rất công hiệu. Nó không được làm ra để dành cho những người phụ nữ mặc váy ngắn và đi chân trần với độc mỗi chiếc quần tất. Junko Shimada cũng chẳng thiết kế bộ quần áo này cho Aomame để leo xuống cầu thang thoát hiểm trên tuyến số ba đường cao tốc Thủ đô của Tokyo. Một chiếc xe tải cỡ lớn khác đi bên làn xe ngược chiều khiến cầu thang rung lên bần bật. Gió thổi vù vù qua khe giữa những thanh sắt của chiếc cầu thang. Có điều, đằng nào thì cầu thang cũng ở đó rồi. Nàng chỉ việc leo xuống phố ở phía dưới mà thôi.

Aomame ngoảnh đầu lại phía sau một lần cuối, đưa mắt từ trái sang phải rồi lại từ phải sang trái nhìn hai hàng xe cộ kẹt cứng trên đường cao tốc, giống như một diễn giả đang đứng trên bục chờ đợi các câu hỏi của thính giả sau khi vừa kết thúc bài thuyết trình. Từ nãy đến giờ, hàng xe ấy vẫn chưa nhích thêm được chút nào. Người ta bị kẹt cứng ở đó mà không làm gì được, chỉ biết quan sát từng động tác nhỏ nhặt nhất của nàng, băn khoăn tự hỏi rốt cuộc người phụ nữ đang đứng xa xa phía cầu thang kia đang định làm gì. Aomame cúi nhẹ cằm xuống, cắn môi dưới, đánh giá họ một lượt từ phía sau cặp kính râm màu xanh sẫm.

Các vị không thể bắt đầu tưởng tượng ra tôi là ai, tôi đang đi đâu, hay đang định làm gì. Aomame thầm nói với họ, đôi môi không hề mấp máy. Tất cả các vị đang bị giam cầm ở đây. Các vị không thể tiến lên cũng không thể rút lui. Nhưng tôi thì không giống quý vị đâu. Tôi có việc cần làm xong. Tôi có một sứ mệnh cần hoàn thành. Vì vậy, với sự cho phép của các vị, tôi xin đi trước.

Aomame rất muốn hướng về đám đông ấy mà quắc mắt một cái, nhưng rồi nàng tự kiềm chế được. Nàng không còn thời gian để làm những chuyện kiểu ấy nữa. Một khi gương mặt nàng bị biến đổi, sẽ mất nhiều thời gian và nỗ lực để khôi phục lại được vẻ ban đầu.

Aomame quay lưng với các khán giả câm lặng của mình, sau đó, bước từng bước cẩn thận, nàng bắt đầu leo xuống cầu thang thoát hiểm, lòng bàn chân cảm nhận được hơi lạnh thấu xương của sắt thép. Và cơn gió nhẹ đầu tháng Tư làm mái tóc nàng đung đưa, thi thoảng lại để lộ ra vành tai trái dị dạng của nàng.


* * *



Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

1Q84, Quyển 1, Chương 2 (continued) [Bản dịch mới]



CHƯƠNG 2
Tengo
MỘT Ý KHÁC NẢY RA TRONG TRÍ ÓC

Ký ức đầu đời của Tengo được định hình từ thuở chàng một tuổi rưỡi. Mẹ chàng cởi áo cánh, kéo dây xu-chiêng xuống để cho một người đàn ông không phải cha chàng mút vú. Đứa bé sinh nằm trong chiếc nôi ở gần đó có thể là chính Tengo. Chàng quan sát như thể đang là người thứ ba. Hay đó có thể là đứa em sơ sinh của chàng? Không, có lẽ không phải vậy đâu. Đó chính là Tengo-hồi-một-tuổi-rưỡi. Trực giác giúp chàng khẳng định điểu đó. Đứa bé đang ngủ, mắt nhắm nghiền, hơi thở sâu và đều. Cảnh tượng sống động kéo dài mười giây ấy đã in hằn lên bức tường ý thức, trở thành ký ức đầu đời của chàng. Không có điều gì diễn ra trước hoặc sau cảnh tượng ấy. Nó đứng một mình, giống như đỉnh ngọn tháp trong một thị trấn đang bị nhấn chìm bởi nước lũ, nổi bật lên giữa dòng nước đục ngầu.

Tengo thường cố gắng hỏi mọi người xem ký ức đầu đời của họ được định hình khi họ lên mấy tuổi. Đối với hầu hết mọi người, đó là tuổi lên bốn hoặc lên năm. Sớm nhất là ba tuổi. Phải lên đến ít nhất là ba tuổi, đứa trẻ mới bắt đầu quan sát cảnh tượng xung quanh với một mức độ duy lý nhất định. Ở giai đoạn trước đó, mọi thứ hiện lên như những đống hỗn độn khó hiểu. Thế giới giống như một bát cháo loãng dành cho người ốm, không có khả năng nắm bắt. Nó lướt vèo qua những cánh cửa sổ để ngỏ trước khi hình thành nên ký ức trong bộ não của chúng ta.

Chắc chắn đứa trẻ mới một tuổi rưỡi không thể nào hiểu được ý nghĩa của cảnh tượng người đàn ông không phải cha đang mút vú mẹ mình. Điều này là hiển nhiên. Vì vậy, nếu ký ức này của Tengo là xác thực, thì cảnh tượng ấy hẳn phải đã được in hằn vào võng mạc của chàng một cách tự nhiên nhất – giống như cái cách mà máy ảnh chụp hình ảnh và lưu lại trên phim một cách cơ học, như là một hỗn hợp của ánh sáng và bóng tối. Và khi ký ức của chàng trưởng thành dần, cảnh tượng được lưu giữ trong ký ức ấy đã được phân tích từng chút một để xác định ý nghĩa của nó. Nhưng đó có phải là cảnh tượng có thực hay không? Liệu não bộ của một đứa bé sơ sinh có khả năng lưu giữ những cảnh tượng như vậy?

Hay đây đơn giả chỉ là một ký ức sai lầm của Tengo? Phải chăng nó chỉ là thứ gì đó mà trí óc chàng tưởng tượng ra về sau này để sử dụng cho một mục đích hoặc ý đồ nào đó? Tengo đã suy nghĩ nhiều vể khả năng rằng ký ức này có thể chỉ là sự bịa đặt, nhưng chàng đi đến kết luận rằng có lẽ không phải thế. Nó quá sống động và đầy sức thuyết phục nên không thể là giả được. Ánh sáng, mùi vị, nhịp tim của chàng: tất cả đều rất thực, không giống như sự bắt chước. Và bên cạnh đó, sự giả định rằng cảnh tượng này có thật còn giúp chàng lý giải nhiều sự việc trên cả góc độ logic lẫn cảm tính. 

Cảnh tượng sống động kéo dài mười giây này có thể vụt đến bất ngờ với chàng mà không có một sự cảnh báo hay cân nhắc nào về không gian và thời gian: khi chàng đang ngồi trên tàu điện ngầm, lúc viết các công thức toán lên bảng, khi đang ăn cơm, hay (như lúc này) đang ngồi và nói chuyện với ai đó ngồi đối diện. Giống như một cơn sóng thần im lặng. Cho đến khi chàng nhận ra, cảnh tượng ấy đã ở ngay trước mắt, khiến chân tay chàng tê cứng. Dòng chảy thời gian dừng lại. Không khí trở nên loãng hơn, khiến chàng khó thở. Chàng mất hết các mối liên hệ với con người và sự vật xung quanh mình. Bức tường chất lỏng của cơn sóng thần ấy nuốt chửng lấy chàng. Và mặc dù cảm thấy thế giới đã bị nhấn  chìm trong bóng tối, nhưng không vì thế mà chàng mất đi sự nhận thức. Nó chỉ là một cảm giác về sự chuyển sang lộ trình mới. Nhiều phần trong ý thức của chàng thậm chí còn trở nên sắc bén hơn trước bởi sự thay đổi này. Mặc dù không sợ hãi, nhưng chàng không sao mở được mắt. Mí mắt chàng khép chặt. Tiếng động trở nên mơ hồ, và cảnh tượng quen thuộc ấy cứ liên tục được hắt lên màn chiếu của ý thức chàng. Mồ hôi ứa ra khắp người, và phần áo lót dưới nách bắt đầu ướt. Toàn thân chàng run lên nhè nhẹ, trái tim chàng đập nhanh hơn, mạnh hơn.

Nếu đang ở cùng với ai đó khi sự cố này xảy ra, Tengo sẽ giả vờ nhất thời bị chóng mặt. Trên thực tế, nó giống như đột nhiên bị chóng mặt. Mọi thứ sẽ trở lại bình thường ngay sau đó. Chàng sẽ lấy khăn tay trong túi ra che miệng. Đợi cho “cơn chóng mặt” này qua đi, chàng sẽ giơ tay lên làm dấu hiệu cho người kia, tỏ ý không cần phải lo lắng. Đôi khi nó kéo dài trong khoảng ba mươi giây, có lúc kéo dài hơn một phút. Trong khoảng thời gian đó, hình ảnh giống nhau sẽ tự động lặp lại như thể đầu phát video được đặt ở chế độ tự động vậy. Mẹ chàng sẽ kéo chiếc dây xu-chiêng xuống và một người đàn ông nào đó sẽ bắt đầu bú mút núm vú đang căng cứng của bà. Bà nhắm mắt lại, thở hổn hển. Mùi hương ấm áp quen thuộc của sữa mẹ lan tỏa nhè nhẹ trong không khí. Khứu giác là giác quan thính nhạy nhất ở trẻ sơ sinh. Khứu giác cho biết rất nhiều điều, đôi khi là tất cả. Cảnh tượng hoàn toàn tĩnh lặng, không khí chỉ là một chất lỏng đậm đặc. Thứ duy nhất mà chàng có thể nghe thấy được chỉ là tiếng đập yếu ớt của trái tim mình.

Nhìn đây này, họ nói. Chỉ được nhìn cảnh này thôi, họ nói. Mày đang ở đây. Mày không thể đi đâu được, họ nói. Thông điệp ấy lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Cơn “bộc phát” lần này khá dài. Tengo nhắm nghiền hai mắt, lấy khăn tay bịt miệng như mọi lần, và nghiến chặt hàm răng. Chàng không hiểu tình trạng này kéo dài bao lâu. Chàng chỉ có thể căn cứ vào mức độ mệt mỏi của cơ thể mà ước đoán khi mọi chuyện đã đi qua. Thể lực tiêu hao khủng khiếp, lần đầu tiên chàng cảm thấy mệt mỏi như vậy. Phải mất một lúc lâu chàng mới mở mắt ra được. Ý thức chàng muốn tỉnh táo trở lại, nhưng cơ thịt và cơ quan nội tạng lại từ chối. Chàng giống như một con thú ngủ đông tỉnh dậy sớm hơn so với dự định do bị nhầm lẫn mùa vụ.

“Tengo, Tengo!”, ai đó đang gọi chàng. Âm thanh mơ hồ ấy dường như đang vẳng lên từ dưới đáy sâu hang động. Tengo nhớ ra đó chính là tên mình. “Sao thế Tengo? Nó lại xảy đến với em à? Em có ổn không?”. Tiếng nói nay đã gần hơn.

Cuối cùng Tengo cũng mở mắt, định thần lại, chăm chú nhìn xuống bàn tay phải của chàng đang bám chặt mép bàn. Giờ thì chàng đã có thể chắc chắn rằng thế giới vẫn đang tồn tại trong một chỉnh thể và chàng là một phần của nó. Tuy vẫn còn chút tê liệt, nhưng bàn tay phải này đích thực là của chàng. Và chàng còn cảm nhận thấy mùi mồ hôi của mình, như thể đó là thứ mùi dữ dội kỳ lạ, giống mùi của động vật trong vườn bách thú.

Cổ họng Tengo khô khốc. Chàng với tay cầm chiếc cốc thủy tinh trên bàn ăn lên, cẩn thận không để nước bắn ra ngoài, uống hết nửa cốc. Sau khi nghỉ một lúc để điều hòa lại nhịp thở, chàng uống nốt nửa cốc còn lại. Ý thức chàng dần phục hồi như cũ, các giác quan cũng trở lại bình thường. Chàng đặt chiếc cốc không xuống và lấy khăn tay lau miệng.

“Xin lỗi”, Tengo nói. “Giờ em ổn rồi”.

Chàng nhận ra người đang ngồi đối diện với mình là Komatsu, và họ đang nói chuyện trong quán café gần ga Shinjuku của Tokyo. Âm thanh của các cuộc nói chuyện gần đó cũng đã trở lại bình thường. Đôi nam nữ ngồi bàn bên cạnh đang lo lắng nhìn chàng. Cô nhân viên phục vụ đứng gần đó tỏ vẻ sợ hãi rằng vị khách của mình sẽ bị nôn. Tengo nhìn cô, gật gật đầu và mỉm cười, như muốn ra hiệu: “Đừng lo lắng, không có vấn đề gì đâu”.

“Nó giống như một trường hợp bị ngất, phải vậy không?”, Komatsu hỏi.

“Không, không có gì đâu, một cảm giác choáng ấy mà. Hơi tệ chút thôi”, Tengo trả lời. Giọng của chàng dường như vẫn chưa trở lại bình thường, mặc dù đã gần giống lúc đầu.

“Sẽ rất tồi tệ nếu nó xảy ra khi đang lái xe đấy”, nhìn thẳng vào mắt chàng, Komatsu nói.

“Em  không lái xe.”

“Vậy là tốt. Anh biết một gã bị dị ứng phấn hoa sam, đang lái xe thì đột nhiên hắt xì hơi liên tục, rồi cứ thế đâm thẳng vào bốt điện thoại công cộng. Tất nhiên, trường hợp của em không phải chi là hắt xì hơi đâu. Lần đầu tiên nó đã khiến anh bị sốc. Tuy vậy, đến giờ thì anh cũng quen rồi”.

“Em xin lỗi”.

Tengo cầm cốc cà-phê lên và uống nốt phần còn lại. Chàng chẳng cảm thấy mùi vị gì, chỉ cảm thấy một thứ chất lỏng âm ấm luồn qua cổ họng mình.

“Muốn gọi thêm một cốc nước nước không?”, Komatsu hỏi.

Tengo lúc lắc đầu. “Không, em ổn rồi mà.”

Komatsu lấy bao thuốc Marlboro từ túi áo khoác, rút một điếu rồi dùng diêm của quán để châm lửa. Đoạn, anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay.

“Chúng ta nói tới đâu rồi nhỉ?”, Tengo hỏi, cố gắng để trở lại bình thường.

“Ừ”, Komatsu nói, nhìn xa xăm như thể đang ngẫm nghĩ hay làm bộ ngẫm nghĩ. Tengo không rõ đó là điệu bộ nào. Cách nói năng và hành xử của Komatsu ẩn chứa nhiều chất kịch. “Đúng rồi, về cô gái Fuka-Eri. Chúng ta vừa mới bắt đầu nói về cô ấy và Nhộng không khí”.

Tengo gật đầu. Đúng rồi. Chàng vừa mới bắt đầu trình bày quan điểm của mình về Fuka-Eri và tiểu thuyết ngắn Nhộng không khí của cô ấy thì cơn “bộc phát” bắt đầu tấn công chàng.

 Komatsu nói: “Anh đang định nói với em về cái bút danh kỳ quặc của cô ấy”.

“Nó kỳ quặc thật đấy nhỉ. ‘Fuka’ nghe như giống như họ của một gia đình nào đó, còn ‘Eri’ có thể là tên một cô gái bình thường: ‘Eri’ hoặc ‘Eriko’.

“Đúng như vậy đấy. Họ của cô ấy là ‘Fukada’, và tên thật là ‘Eriko’, nên cô ấy ghép hai cái lại: ‘Fuka’ với ‘Eri’ thành ‘Fuka-Eri’.

Tengo lấy tập bản thảo trong túi xách ra và đặt lên bàn, đặt tay lên tập bản thảo để tái xác nhận sự tồn tại của nó.

“Như em đã nói vắn tắt qua điện thoại, điểm tuyệt nhất của tác phẩm Nhộng không khí này là nó không bắt chước ai cả. Nó tuyệt đối không phải là cái cảm giác ta thường bắt gặp ở một tác giả trẻ: ‘Tôi muốn trở thành ai đó tương tự’. Chắc chắn là văn phong chưa trau chuốt, và lối viết còn vụng về. Cô bé thậm chí còn đặt cái tên truyện sai: cô nhầm lẫn giữa ‘nhộng’ và ‘kén’. Nếu muốn, anh có thể chỉ ra hàng loạt nhược điểm. Nhưng bản thân câu chuyện có sức cuốn hút riêng: nó lôi cuốn em. Mặc dù toàn bộ cốt truyện đều hư cấu, nhưng các chi tiết được mô tả một cách sống động đến đáng kinh ngạc. Sự cân bằng giữa cốt truyện và chi tiết thật xuất sắc. Em không biết phải dùng từ ‘độc đáo’ hay ‘tất yếu’ để diễn tả chính xác, và em tin rằng anh sẽ đồng ý nếu ai đó cho rằng tác phẩm này chưa đạt tới mức đó, nhưng cuối cùng, nếu bỏ qua hết các tiểu tiết và những lỗi nhỏ, thì tác phẩm để lại ấn tượng thực sự - nó chinh phục người ta bằng một cách thức nào đó thật lạ lẫm, không thể diễn tả, thậm chí khiến người ta có một chút bối rối”.

Komatsu chăm chú nhìn Tengo, không nói gì. Anh muốn lắng nghe thêm.

Tengo tiếp tục. “Em không muốn tác phẩm như thế này bị loại khỏi cuộc thi chỉ vì văn phong vụng về. Em đã đọc vô số tác phẩm dự thi trong nhiều năm qua – hay có thể nó rằng em chỉ ‘lướt qua’ chứ không ‘đọc’. Một số  tác phẩm viết khá tốt, nhưng tất nhiên hầu hết thì thật dễ sợ. Và khác với tất cả bản thảo kia, bản thảo Nhộng không khí này thật sự khác biệt đối với em. Đây là tập bản thảo duy nhất khiến em từng muốn đọc lại”.

“Ừ, ừ”, Komatsu nói, và sau đó, như thể phát hiện ra rằng tất cả những điều này thật tẻ nhạt, anh phà ra một hơi thuốc lá qua cặp môi đang vểnh lên. Tuy vậy, Tengo đã biết Komatsu quá lâu để có thể bị đánh lừa bởi điệu bộ đó.  Komatsu là người thường thể hiện điệu bộ chẳng liên quan gì, thậm chí ngược lại, so với những gì mà anh đang cảm nhận. Và do vậy, Tengo vẫn kiên nhẫn chờ anh lên tiếng.

“Anh cũng đọc nó rồi”, Komatsu nói sau một hồi im lặng. “Ngay sau khi em gọi điện cho anh. Văn phong tệ đến đáng kinh ngạc. Không tuân theo quy tắc ngữ pháp nào cả, và một số chỗ còn chẳng hiểu cô ấy đang cố gắng diễn đạt cái gì. Cô ấy nên trở về trường và học lại cách viết một câu văn chuẩn mực trước khi bắt đầu viết tiểu thuyết”.

“Nhưng anh đã đọc hết nó, phải vậy không?”

Komatsu mỉm cười. Nụ cười như thể được anh moi ra từ trong hốc sâu của cái ngăn kéo thường vẫn không được mở ra. “Em nói đúng, anh đã đọc hết và phải tự lấy làm kinh ngạc. Anh chưa bao giờ đọc từ đầu đến cuối các tác phẩm mới gửi dự thi. Anh thậm chí còn đọc lại một số phần của tác phẩm. Điều này giống như hiện tượng các hành tinh cùng nằm trên một đường thẳng tuyệt đối ấy. Anh thật sự thừa nhận điều này.”

“Điều đó chứng tỏ rằng cái gì đó, đúng không ạ?”

Komatsu đặt điếu thuốc xuống gạt tàn, đưa ngón giữa bàn tay phải lên gãi gãi cánh mũi. Tuy vậy, anh không trả lời câu hỏi của Tengo.

Tengo nói: “Cô bé này mới mười bảy tuổi, đang học trung học. Thật sự là cô ấy vẫn chưa luyện cách đọc và viết tiểu thuyết. Em biết, trên thực tế, tác phẩm này sẽ rất khó đoạt giải thưởng dành cho các nhà văn mới, nhưng nó đủ hay để vào vòng chung khảo. Em chắc rằng anh có thể làm được điều này. Như thế thì cô ấy có khả năng đoạt giải trong lần sau.”

“Ừ,” Komatsu ngáp dài, lại trả lời một cách vô vị rồi uống một ngụm nước trong cốc của mình. 

“Tengo này, em thử nghĩa xem. Tưởng tượng rằng nếu anh đưa tác phẩm này vào vòng chung khảo.  Mấy tay thành viên của hội đồng tuyển chọn thế nào cũng phản đối ầm ầm. Nhưng chắc chắn họ không chịu đọc hết tiểu thuyết này đâu. Cả bốn vị này đều là nhà văn và đang bận rộn với tác phẩm của mình. Họ chỉ đọc lướt vài trang đầu rồi quẳng đi vì cho rằng chẳng khác gì bài văn của học sinh phổ thông nào đó. Anh có thể thuyết phục họ kiên trì và đảm bảo với họ rằng chỉ cần một chút biên tập nhỏ thì tác phẩm này sẽ chói sáng, nhưng liệu ai nghe anh chứ? Thậm chí nếu có thể thuyết phục họ, thì anh muốn dành cho tác phẩm nào đó có nhiều hứa hẹn hơn”.

“Vậy anh muốn nói là chúng ta nên loại nó ra à?”

Komatsu gãi gãi cánh mũi rồi đáp: “Không, anh không nói thế. Về tác phẩm này, trong đầu anh vừa nảy ra một ý khác”.

“Nảy ra một ý khác?”, Tengo nhắc lại.

Chàng nhận thấy điều gì đó chẳng lành giọng điệu của Komatsu.

“Em đang nói là chúng ta nên kỳ vọng cô bé sẽ đoạt giải ở tác phẩm sau”, Komatsu nói. “Tất nhiên là anh cũng mong vậy. Một trong những niềm vui lớn nhất của một biên tập viên là vun đắp cho nhà văn trẻ theo thời gian. Thật hồi hộp khi ngước lên bầu trời đêm quang đãng và phát hiện ra một vì sao mới trước tất cả mọi người. Nhưng nói thật với em, anh không tin rằng cô bé này lần sau đâu. Nói thật lòng, anh đã sinh sống bằng nghề này được hai mươi năm rồi. Anh từng chứng kiến các nhà văn lần lượt xuất hiện rồi biến mất. Và ít nhất anh cũng cảm nhận được sự khác biệt giữa các nhà văn sẽ tác phẩm tiếp theo với những người không có. Và theo anh, cô bé này sẽ không có tác phẩm tiếp theo đâu. Tác phẩm tiếp theo của cô ấy sẽ không được viết ra, kể cả tác phẩm sau đó nữa. Đầu tiên, hay xem thứ văn phong này. Dù có sáng tác bao nhiêu tác phẩm đi nữa thì văn phong này cũng sẽ không tốt lên. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Và lý do để nó không xảy ra là vì chính cô bé tác giả ấy không để ý gì đến văn phong cả: cô ấy rõ ràng là không có ý định muốn viết tốt hơn, hay muốn cải thiện văn phong của mình. Văn phong hay có được bằng hay cách: hoặc nhà văn có tài năng bẩm sinh, hoặc anh ta phải làm việc cật lực để đạt tới. Nhưng cô bé này, Fuka-Eri, không phải là cả hai trường hợp đó. Đừng hỏi anh tại sao, nhưng vấn đề văn phong không khiến cô bé ấy bận tâm. Dù vậy, cái mà cô bé này có là sự mong muốn kể ra một câu truyện – một sự mong muốn khá cháy bỏng. Anh đánh giá cao cô bé này ở điểm đó. Mặc dù với hình thức thức thô ráp như vậy, nhưng tác phẩm này vẫn có thể hấp dẫn em, Tengo, và cũng khiến anh phải đọc hết một lượt. Em có thể thấy rằng chỉ riêng điều ấy thôi cũng đã đầy ấn tượng rồi. Nhưng với tư cách là một tiểu thuyết gia thì cô bé này không có tương lai. Thật sự không có. Anh không muốn khiến em thất vọng, nhưng đó là ý kiến chân thành nhất của anh”.

Tengo phải thừa nhận rằng Komatsu đúng. Người đàn ông này có trực giác biên tập thật nhạy bén, nếu như thật sự tồn tại cái gọi là trực giác biên tập.

“Nhưng kể ra thì cũng không sao nếu cho cô ấy một cơ hội, phải không?”, Tengo hỏi.

“Ý em là cứ ném xuống nước để xem cô bé ấy nổi hay chìm?”

“Đúng vậy đấy”.

“Anh đã từng làm vậy nhiều lần lắm rồi. Anh không muốn chứng kiến bất kỳ ai phải chết đuối nữa”.

“Này, còn em thì sao?”

“Ít nhất là em sẵn sàng làm việc chăm chỉ”, Komatsu trả lời một cách đầy thận trọng. “Ít nhất là anh thấy rằng em không tùy tiện. Em rất khiêm tốn đối với việc viết lách. Và tại sao ư? Bởi vì em thích viết văn. Anh đánh giá cao điểm đó ở em. Đó là phẩm chất quan trọng nhất của những người muốn trở thành nhà văn”.

“Nhưng chỉ mỗi thế thôi thì chưa đủ mà”.

“Tất nhiên, chỉ mỗi thế thôi thì chưa đủ. Còn phải có ‘một thứ gì đó đặc biệt’ nữa, một phẩm chất khó xác định mà anh không thể chỉ ra. Đó là sự tưởng tượng, mà anh luôn đánh giá cao hơn mọi thức khác. Những thứ khiến anh có thể hiểu một cách thấu đáo chẳng hấp dẫn anh chút nào. Rõ ràng vậy mà. Thật đơn giản”.

Tengo im lặng một lúc. Sau đó chàng hỏi: “Trong tác phẩm của Fuka-Eri có ‘cái gì đó’ mà anh không hiểu thấu đáo không?”.

“Ừ, có, tất nhiên rồi. Cô bé này đang sở hữu một thứ gì đó quan trọng. Anh không biết chính xác đó là thứ gì, nhưng rõ ràng là cô ấy đang sở hữu nó. Cả anh và em đều biết rõ điều này. Ai cũng có thể nhìn thấy nó, giống như làn khói bốc lên từ đống lửa trong một chiều lặng gió ấy mà. Nhưng Tengo này, dù cô bé ấy sở hữu thứ gì thì cô ấy cũng không có khả năng tự dung chứa nó đâu”

“Có nghĩa là, nếu chúng ta ném cô bé này xuống nước thì cô ấy sẽ chết chìm ư?”

“Chính xác”.

“Và đó là lý do vì sao anh không muốn đưa cô ấy vào danh sách chung khảo?”.

“Chính vậy đấy”, Komatsu mím môi, hai bàn tay đan vào nhau đặt trên bàn. “Đó chính là điểm mấu chốt để anh phải rất cẩn trọng trong việc diễn đạt ý của mình suốt cuộc trò chuyện này”.
Tengo cầm cốc cà phê lên và nhìn chăm chú vào chất lỏng bên trong. Sau đó anh đặt chiếc cốc xuống. 
Komatsu vẫn im lặng. Tengo hỏi: “Điều ấy có phải chính là ‘một cái gì đó khác’ mà anh ám chỉ ban nãy không?”.

Komatsu nheo mắt lại như thể một giáo viên đang chăm chú nhìn học sinh xuất sắc của mình. Anh gật đầu nhẹ và nói: “Đúng vậy”.