1Q84
Haruki Murakami
BẢN DỊCH MỚI
(Dựa trên bản
dịch tiếng
Anh từ nguyên bản tiếng Nhật
của Jay Rubin [Quyển 1, 2] và Philip Gabriel [Quyển 3]. (© Aaknof, 2011, ISBN-10: 0307593312). Đây là bản dịch được
tác giả giới thiệu và đảm bảo để dịch sang các ngôn ngữ khác.
Nguyễn Trung Kiên dịch.
Kính mời anh chị em cùng tham gia hiệu đính.
*
VÀI SUY NGHĨ CỦA NGƯỜI DỊCH
Tác phẩm 1Q84 đặt ra nhiều vấn
đề lớn: về chủ nghĩa toàn trị và những hậu quả kinh khủng của nó với lịch sử;
sự xung đột giữa tôn giáo và thế tục; sự bỉ ổi của các tôn giáo sống bám
vào sự cuồng tín và ngu muội của con người; sự tha hóa của nghệ thuật
trước một đám đông công chúng dễ dãi, lười biếng và hời hợt; vai trò của
giới trí thức trong xã hội hiện đại; mâu thuẫn thế hệ và sự bất khả hòa
giải của nó; nỗi đau khổ và sự cô đơn tột cùng của con người trước “biển
người mênh mông” trong xã hội hiện đại; bi kịch của bạo hành gia đình; vai
trò của giáo dục gia đình; vai trò của tự do giáo dục trong việc hoàn
thiện nhân cách; những cái giá đắt không thể tưởng tượng nổi mà nước Nhật
phải đánh đổi để đổi lấy cái gọi là "hiện đại"..., và trên hết, 1Q84 là bản trường ca, ca ngợi Tự
do và Tình yêu lứa đôi.
Tôi vẫn tin rằng, những bi kịch mà dân tộc Nhật từng trải qua
trong các thập niên trước sẽ là những bi kịch mà dân tộc Việt sẽ phải nếm trải
trong những thập niên tới.
Như vậy, phải chăng 1Q84 là
khúc "Chuông nguyện hồn ai" cho mỗi chúng ta?
Và nếu đúng như thế, thì chúng ta nên và cần phải làm gì?
*
QUYỂN I
Chương 1. Aomame
Đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa bạn
Radio trong xe taxi vừa chuyển sang chương trình âm nhạc cổ điển
trên sóng FM. Bản nhạc Sinfonietta của Leoš Janáček đang được
phát sóng này có vẻ không được lý tưởng cho lắm để thưởng thức trong xe taxi
đang bị dòng xe cộ chật ních bao vây vì tắc đường. Bác lái xe đứng tuổi dường
như cũng không chăm chú nghe nhạc. Miệng mím chặt, bác quan sát hàng xe dài
dằng dặc đang nối đuôi nhau trên đường cao tốc trên cao, giống như một ngư phủ
lão luyện đang đứng nơi mũi thuyền để cố tìm ra điểm hợp lưu đáng ngại của hai
dòng nước. Aomame ngả hẳn người ra hàng ghế sau rộng rãi, nhắm mắt lại và lắng
nghe bản nhạc.
Liệu có bao nhiêu người sau khi lắng nghe chỉ vài nhịp đầu tiên là
đã có thể nhận ra ngay bản Sinfonietta của Janáček? Có thể đâu
đó giữa “ít vô cùng” và “gần như không có”. Nhưng vì lý do nào đó, Aomame là
một trong số ít người có thể làm được điều này.
Janáček sáng tác bản giao hưởng nhỏ này vào năm 1926. Đầu tiên,
ông viết khúc dạo đầu với hình thức hợp tấu giữa kèn đồng và trống để dành cho
một đại hội thể dục. Aomame mường tượng ra nước Cộng hòa Tiệp Khắc vào năm
1926: Đại chiến Thế giới lần thứ nhất đã kết
thúc, và đất nước được
giải phóng khỏi ách thống trị dài lâu của vương triều Habsburg. Như để nhiệt
tình hưởng thụ khoảng thời gian hòa bình ngắn ngủi lướt qua vùng Trung Âu,
người dân uống bia Pilsner trong các quán café và sản xuất ra những khẩu súng
máy nhẹ bỗng đẹp đẽ. Hai năm trước, Franz Kafka đã qua đời trong sự quên lãng
hoàn toàn. Không lâu sau, Hitler từ xó xỉnh nào đó đột ngột xuất hiện và thôn
tính đất nước nhỏ bé xinh đẹp này trong chớp mắt, nhưng vào thời điểm ấy không
một ai biết được điều tồi tệ sắp xảy ra với họ. Đó có lẽ là một luận đề quan
trọng nhất của lịch sử: “Vào thời điểm ấy, không ai biết được tương lai sẽ xảy
ra chuyện gì”. Lắng nghe âm nhạc của Janáček, Aomame mường tượng đến những ngọn
gió vô tư lự thổi dọc bình nguyên Bohemia và suy tưởng về những thăng trầm của
lịch sử.
Năm 1926, Thiên hoàng Taisho của Nhật Bản băng hà, tên gọi
của một kỷ nguyên mới được cải thành Showa. Đó cũng là điểm khởi đầu cho một
thời đại tồi tệ, tăm tối của đất nước. Khoảnh khắc ngắn ngủi của chủ nghĩa hiện
đại và nền dân chủ đang kết thúc, nhường chỗ cho chủ nghĩa phát-xít.
Aomame yêu lịch sử cũng nhiều như với thể thao. Nàng hiếm khi đọc
tiểu thuyết, nhưng sách lịch sử đã ngốn của nàng rất nhiều thời gian. Điều
khiến nàng thích thú với lịch sử là, tất cả sự việc về cơ bản đều được liên kết
với những ngày tháng và địa điểm cụ thể. Nàng không gặp khó khăn gì trong việc
ghi nhớ các mốc lịch sử. Kể cả không thuộc lòng những con số đó bằng cách học
vẹt, nhưng ngày tháng sẽ tự động hiện lên trong trí óc khi nắm được mối quan hệ
trước sau của các sự kiện lịch sử. Thời học cấp hai và cấp ba, điểm thi môn
lịch sử của Aomame lúc nào cũng cao nhất lớp. Mỗi khi nghe người khác nói rằng
họ thật khó khăn để ghi nhớ các mốc lịch sử, nàng đều cảm thấy khó hiểu. Sao
chuyện đơn giản như vậy mà cũng không làm được nhỉ?
Aomame là tên thật của nàng. Ông nội nàng đến từ cái nơi chẳng
biết nên gọi là thị trấn nhỏ hay ngôi làng nhỏ vùng cao của tỉnh Fukishima, nơi
mà nghe nói đúng là có mấy người mang tên Aomame, vốn được viết với các ký tự
giống như từ “đậu xanh” và phát âm với bốn nguyên âm, “Ah-oh-mah-meh”. Nhưng
nàng chưa bao giờ đến đó. Từ trước khi nàng sinh ra, cha nàng đã cắt đứt quan
hệ với ông bà nội. Bên ngoại nhà nàng cũng vậy. Vì thế, Aomame chưa một lần
được gặp ông bà nội ngoại. Nàng đi du lịch không nhiều, nhưng trong những lần
hiếm hoi được đi đây đi đó, như đã thành thói quen, lúc nào nàng cũng lật tìm
trong cuốn danh bạ điện thoại của khách sạn, xem có ai mang tên Aomame hay
không. Cho đến giờ nàng vẫn chưa phát hiện ra người nào mang tên Aomame ở bất
cứ thành phố hay thị trấn nào nàng từng ghé chân, và mỗi lần như vậy, nàng đều
có cảm giác như mình là một kẻ đắm tàu cô độc giữa đại dương mênh mông.
Lúc nào nàng cũng cảm thấy việc xưng tên thật phiền phức. Mỗi lần
nàng nói tên mình, người đối diện liền nhìn nàng chằm chặp bằng ánh mắt bối rối
hoặc ngờ vực.
“Cô Aomame?”.
“Vâng. Giống như ‘Đậu Xanh’ ấy ạ.”
Thời còn làm ở công ty, khi người quản lý yêu cầu nàng lúc nào
cũng phải mang theo danh thiếp, thì lại càng phiền phức hơn. Người ta cầm danh
thiếp của nàng rồi chăm chú đọc trong giây lát, cứ như bất ngờ nhận được tin
dữ. Khi nàng xưng tên qua điện thoại, nàng thường nghe thấy tiếng cười cố nén.
Những khi ở trong phòng chờ của bệnh viện hay công sở, lúc tên nàng được gọi
đến, mọi người đều sẽ ngẩng đầu lên, tò mò muốn xem thử người được gọi là “Đậu
xanh” này trông như thế nào.
Một số người nhầm lẫn giữa tên gọi của các loại đậu còn gọi nàng
là “Edamame” (Đậu nành) hay “Soramame” (Đậu tằm), và mỗi lần như thế, nàng đều
mất công đính chính: “Không, tôi không phải là Đậu nành hay Đậu tằm, mà là Đậu
xanh. Mặc dù rất giống nhau. Aomame”. Trong suốt ba mươi năm đời mình, không
hiểu nàng đã biết bao lần chứng kiến sự nhầm lẫn hay trêu đùa vì cái tên này
của mình. Nếu sinh ra không
mang tên này, đời mình có lẽ đã khác nhiều. Nếu mang những cái tên bình thường
như Sato, Tanaka hay Suzuki, có thể mình sẽ có một cuộc sống nhẹ nhàng và dễ
chịu hơn, hoặc đánh giá mọi người với ánh mắt bao dung hơn. Có thể.
Aomame nhắm mắt lại, lắng nghe bản nhạc, để âm thanh tuyệt hảo của
hợp tấu kèn đồng và trống đáng yêu này thấm vào tâm tưởng. Sau đó, đột nhiên
nàng nhận thấy rằng, chất lượng âm thanh của radio trên xe taxi này rất tốt.
Mặc dù âm lượng khá nhỏ nhưng âm thanh sâu, nghe rõ được cả các âm bồi. Nàng mở
mắt, nhổm người về phía trước, quan sát dàn âm thanh nổi. Cả dàn máy đều một
màu đen tuyền bóng lộn đầy tự hào. Tuy nàng không thấy rõ thương hiệu, nhưng
chỉ nhìn qua cũng biết là hàng cao cấp, với rất nhiều nút bấm và công tắc,
những con số màu xanh hiện lên rõ ràng trên màn hình điều khiển màu đen. Đây
không phải là loại dàn âm thanh mà bạn kỳ vọng sẽ được nhìn thấy trên một chếc
xe taxi thông thường.
Nàng nhìn khắp nội thất của chiếc xe. Từ lúc bước lên xe đến giờ,
nàng mải đắm chìm với những suy nghĩ của mình nên không để ý lắm. Đây không
phải là xe taxi thông thường. Đồ trang trí toàn hàng chất lượng cao, và chỗ
ngồi cũng đặc biệt thoải mái. Hơn nữa, trong xe rất yên tĩnh. Chiếc xe hẳn có
khả năng cách âm hoàn hảo, tạp âm bên ngoài gần như không lọt vào được, giống
như đang ngồi trong phòng thu cách âm vậy. Người lái xe hẳn đang sở hữu xe
riêng của mình. Trong giới lái xe taxi tư ấy, cũng có người không tiếc tiền
trang bị cho xe. Nàng khẽ đảo mắt, tìm kiếm giấy phép hành nghề lái xe taxi mà
không thấy. Nhưng đây cũng không giống loại xe dù bất hợp pháp. Trên xe có lắp
đặt đồng hồ tính tiền đạt tiêu chuẩn, hiển thị rõ ràng chuẩn xác số tiền xe,
giờ đang là 2.150 yên. Tuy vậy, cái giấy phép hành nghề taxi có ghi tên lái xe
thì lại chẳng thấy đâu.
“Xe tốt quá.” Aomame bắt chuyện từ chỗ ngồi sau lưng bác lái xe.
“Yên tĩnh thật. Loại xe gì vậy bác?”
“Xe Crown, dòng Royal Saloon của Toyota,” bác lái xe trả lời ngắn
gọn.
“Tiếng nhạc ở đây nghe tuyệt lắm.”
“Đây là loại xe rất yên tĩnh. Đó cũng là lý do để bác chọn nó đấy.
Hãng Toyota đang sở hữu công nghệ cách âm nhất nhì thế giới”.
Aomame gật gật đầu rồi dựa hẳn người ra phía sau. Kiểu nói chuyện
của bác lái xe khiến nàng cảm thấy hơi nghi hoặc, như bác thường để lại một vài
điểm quan trọng, không nói ra hết. Ví dụ (và đây chỉ là một ví dụ thôi), bác
khẳng định về cách âm thì đúng là không thể chê xe Toyota được, nhưng những chỗ
khác thì không hẳn là không có vấn đề. Mỗi lần bác nói dứt câu, vẫn còn vương lại
sau đó một khối im lặng đầy ẩn ý. Trong không gian chật chội của xe, khối im
lặng ấy trôi nổi tựa như một đám mây tưởng tượng nhỏ bé, làm Aomame cảm thấy
bứt rứt không yên một cách lạ lùng.
“Đúng là một chiếc xe yên tĩnh,” nàng tỏ ý đồng tình, như thể muốn
xua đám mây nhỏ ấy đi. “Dàn âm thanh hình như cũng thuộc loại có chất lượng đặc
biệt?”
“Lúc mua bác đã phải rất quyết đoán đấy,” bác lái xe nói, giọng
điệu nghe như một sĩ quan tham mưu đã giải ngũ đang kể lại một chiến tích trong
quá khứ, “bác dành quá nhiều thời gian ngồi trong này, nên muốn có chất lượng
âm thanh càng cao càng tốt. Và…”
Aomame đợi bác lái xe nói tiếp, nhưng bác không nói gì thêm. Nàng
lại nhắm mắt và tập trung lắng nghe bản nhạc. Aomame không hề biết Leoš Janáček
là người như thế nào, nhưng nàng khá chắc chắn rằng ông không thể ngờ bản nhạc
do mình sáng tác lại được người nào đó lắng nghe bên trong một chiếc Toyota
Crown Royal Saloon yên tĩnh trên đường cao tốc trên cao của Thủ đô đang tắc
nghẽn nghiêm trọng ở Tokyo vào năm 1984.
Mặc dù vậy, tại sao Aomame có thể vừa nghe là đã nhận ra đây là
bản Sinfonietta của Janáček? Và bằng cách nào mà nàng biết bản
nhạc này được viết vào năm 1926? Nàng không phải người yêu nhạc cổ điển, mà
cũng không hề có ký ức nào về Janáček, vậy mà, vừa nghe thấy vài nhịp mở đầu
của bản nhạc, chỉ trong chớp mắt các thông tin liên quan đến nó liền hiện lên
trong tâm trí của nàng, như một bầy chim bay ùa vào phòng qua ô cửa sổ rộng mở.
Bản nhạc đã gây ra cho Aomame một cảm giác kỳ lạ, như thể bị “vặn xoắn” vậy.
Không đau đớn hay khó chịu, chỉ là một cảm giác rằng tất cả các mô trong cơ thể
nàng dường như đang bị vắt kiệt về mặt thể chất. Aomame không thể hiểu được
điều gì đang diễn ra. Lẽ nào bản Sinfonietta lại có thể mang đến cho mình thứ
cảm giác kỳ lạ này?
“Janáček,” Aomame buột miệng thốt ra trong vô thức. Lời vừa ra
khỏi miệng, nàng đã hối hận, giá như nàng đã không nói.
“Gì cơ, cô gái trẻ?”
“Janáček. Người viết bản nhạc này.”
“Bác chưa bao giờ nghe đến cái
tên này.”
“Nhà soạn nhạc người Tiệp Khắc”.
“À, à”, bác lái xe nói, vẻ khâm phục.
“Xe này của bác phải không ạ?”, Aomame hỏi, hi vọng chuyển sang
chủ đề khác.
“Đúng vậy,” bác lái xe trả lời. Ngừng một lát, bác nói thêm: “Một
mình bác làm thôi. Chiếc xe thứ hai của bác.”
“Chỗ ngồi dễ chịu lắm.”
“Cám ơn cháu, cô gái trẻ”, bác lái xe hơi nghiêng đầu về phía
nàng, nói: “Nhưng mà, cháu đang vội phải không?”
“Cháu có hẹn ở Shibuya. Vì vậy mới phiền bác chạy theo đường cao
tốc.”
“Cuộc hẹn của cháu vào lúc mấy giờ?”
“Bốn giờ rưỡi,” Aomame đáp.
“Ồ, giờ là bốn giờ kém mười lăm rồi. Cháu sẽ không đến kịp đâu.”
“Tắc đường nghiêm trọng thế sao?”
“Trông giống như có tai nạn lớn ở phía trước rồi. Không phải tắc
đường bình thường đâu. Từ nãy tới giờ chúng ta hầu như chẳng nhúc nhích được
chút nào.”
Nàng băn khoăn tại sao bác lái xe này lại không nghe tin tức giao
thông. Đường cao tốc bị tắc nghẽn. Bác ấy nên nghe để cập nhập tình hình qua
kênh đặc biệt dành riêng cho lái xe taxi mới phải chứ.
“Bác không nghe tin tức giao thông cũng biết được phía trước có
tai nạn ạ?”, nàng hỏi.
“Cháu không thể tin được cái kênh giao thông ấy đâu,” ông nói,
giọng phảng phất vẻ xa xăm. “Phải đến một nửa là dối trá. Công ty Đường cao tốc
chỉ phát những tin tức phù hợp với họ thôi. Nếu cháu thực sự muốn biết điều gì
đang xảy ra ở đây, cháu chỉ có thể vào cặp mắt của mình để quan sát, dựa vào bộ
óc của mình để phán đoán thôi.”
“Và theo phán đoán của bác thì chúng ta sẽ bị kẹt ở đây ư?”
“Không nhanh được đâu,” bác lái xe gật đầu. “Bác đảm bảo đấy. Mỗi
lần tắc nghẽn nặng như thế này, đường cao tốc thật sự là địa ngục. Cuộc hẹn của
cháu quan trọng lắm không?”
Aomame nghĩ ngợi giây lát. “Vâng. Quan trọng lắm ạ. Cháu phải đi
gặp mặt khách hàng.”
“Vậy thì gay đấy. Chắc là cháu không đến kịp được rồi.”
Nói xong, bác lái xe khẽ lắc cái cổ mấy lượt như muốn làm mềm các
cơ thịt đang căng cứng. Các nếp nhăn sau gáy của bác nhúc nhích tựa như một
loài sinh vật cổ đại. Nhìn động tác ấy trong vô thức, Aomame chợt nhớ đến vật
thể sắc bén nhọn hoắt ở dưới đáy chiếc túi đeo chéo qua vai. Lòng bàn tay của
nàng rịn ra lấm tấm mấy giọt mồ hôi.
“Vậy theo bác, cháu nên làm gì bây giờ?”, nàng hỏi.
“Cháu chẳng thể làm được gì trên đường cao tốc này cho
tới khi chúng ta đến được lối ra tiếp theo. Giá như bị tắc đường ở trong phố,
thì thì cháu còn có thế ra khỏi xe và bắt tàu điện ngầm”.
“Lối ra tiếp theo ở đâu vậy bác?”
“Ikejiri. Không khéo phải đến chiều muộn mới tới được đó ấy chứ.”
Đến tận chiều muộn ư? Aomame tưởng tượng tình cảnh mình bị nhốt
trong chiếc xe taxi này đến tận chiều muộn. Bản nhạc của Janáček vẫn tiếp tục
được trình tấu. Những âm bịt dây vang lên như thể muốn vỗ về tâm trạng căng
thẳng. Cảm giác bị vặn xoắn từ trước giờ đã dịu đi rất nhiều. Cảm giác đó có
thể là gì?
Aomame đã bắt taxi ở gần Kinuta và khi đến Yohga đã nói với bác
lái xe đi lên tuyến số ba của đường cao tốc trên cao. Ban đầu dòng xe cộ còn
thông thoáng, nhưng lúc sắp đến Sangenjaya thì đột nhiên tắc đường, sau đó thì
hầu như không thể nhúc nhích được nữa. Xe ở làn đường đi ra ngoại ô vẫn thông
suốt. Chỉ có làn đường đi vào trung tâm Tokyo này bị tắc khủng khiếp. Thông
thường, sau ba giờ chiều làn giao thông hướng vào trung tâm của Tuyến đường số
Ba không hay bị tắc nghẽn, vì vậy Aomame mới bảo bác lái xe chạy theo đường này.
“Thời gian chờ trên đường cao tốc không bị tính thêm phí đâu,” bác
lái xe hướng vào gương chiếu hậu mà nói. “Vậy nên cháu không cần lo chuyện tiền
xe. Nhưng bác tin là cháu cần đến chỗ hẹn, phải vậy không?”
“Vâng, chắc chắn rồi ạ. Nhưng bác vừa nói là không có cách gì đấy
thôi?”
Bác lái xe liếc nhìn Aomame trong gương chiếu hậu. Bác đeo kính
râm sáng màu. Vì ánh sáng trong gương không đủ, nên Aomame không thể đoán được
cảm xúc của bác.
“Ồ, thật ra, vẫn có cách đấy. Cháu có thể bắt tàu điện ngầm từ đây để tới
Shibuya, nhưng cháu phải làm một việc tương đối… cực đoan”.
“Một việc tương đối cực đoan ư?”
“Đây không phải là việc mà bác có thể mạnh dạn khuyến khích cháu
thực hiện”.
Aomame không nói lời nào, nheo nheo mắt đợi bác lái xe nói tiếp.
“Cháu nhìn kìa. Có nhìn thấy khoảng trống để dừng xe khẩn cấp ở
ngay phía trước đó không?”, ông chỉ về phía trước và nói, “Thấy không? Gần tấm
biển quảng cáo của Esso đó.”
Aomame tập trung nhìn qua tấm kính chắn gió và thấy bên trái con
đường hai làn xe có một khoảng không gian trống dành cho các xe gặp sự cố tạm
thời dừng đỗ. Đường cao tốc trên cao ở Thủ đô không có vai đường, vì vậy có khá
nhiều chỗ để dừng xe khẩn cấp như thế. Aomame còn nhìn thấy một bốt điện thoại
khẩn cấp màu vàng dùng để liên lạc với Văn phòng Công ty Công cộng Đường cao
tốc Thủ đô. Lúc này, không có xe nào dừng ở khoảng trống đó cả. Sát bên cạnh
làn xe chạy theo chiều ngược lại, trên nóc tòa nhà ven lề đường là tấm biển
quảng cáo lớn của Công ty xăng dầu Esso, vẽ một chú hổ đang toét miệng cười,
tay cầm vòi bơm xăng.
“Nói thật với cháu, chỗ ấy có cầu thang dẫn xuống phố ở bên dưới.
Nó dành cho các lái xe leo xuống phố dưới khi gặp phải hỏa hoạn hay động đất
mạnh. Bình thường thì chỉ các công nhân sửa đường mới sử dụng nó. Nếu cháu có
thể leo xuống cái cầu thang đó, cháu sẽ ở rất gần với Ga tàu điện tuyến Tokyo.
Từ đó, có thể đến Shibuya dễ dàng.”
“Cháu quả thật không biết trên đường cao tốc Thủ đô lại có cầu
thang thoát hiểm đấy,” Aomame nói.
“Không nhiều người biết đâu.”
“Nhưng giờ không phải tình huống khẩn cấp, nếu tự tiện leo xuống
cầu thang ấy liệu có vấn đề gì không?”
Bác lái xe im lặng giây lát. Sau đó ông nói: “Ừ, bác cũng băn
khoăn. Bác không rõ tất cả quy định của cái Công ty ấy, nhưng làm vậy cũng đâu
có phiền ai. Những quy định ấy cũng có thể nhìn nhận dưới góc độ khác, cháu
thấy đúng không? Huống chi, ở chỗ đó lại không có ai giám sát. Mặc dù Công ty
Công cộng Đường cao tốc Thủ đô rất đông nhân viên, nhưng người thực sự làm việc
thì lại thật ít ỏi.”
“Cái cầu thang ấy trông thế nào ạ?”
“À, nó rất giống với thang thoát hiểm hỏa hoạn. Cháu biết đấy,
chính là loại thang vẫn hay thấy ở đằng sau các tòa nhà cao tầng kiểu cũ ấy.
Không có gì đặc biệt nguy hiểm đâu. Nó cao khoảng ba tầng nhà, và cháu có thể
trèo xuống được. Lối vào có một cái rào chắn, nhưng không cao lắm. Ai cũng có
thể trèo qua mà không gặp khó khăn gì.”
“Bác đã từng sử dụng một trong những cái thang nhưng vậy chưa ạ?”
Thay vì trả lời, qua gương chiếu hậu, chỉ thấy bác lái xe chỉ mỉm
một nụ cười điềm đạm ẩn chứa nhiều ngụ ý.
“Tự cháu quyết định thôi”, bác lái xe gõ nhẹ đầu ngón tay lên tay
lái theo điệu nhạc và nói: “Cháu cứ ngồi ở đây mà thưởng thức âm nhạc, bác
chẳng nề hà gì. Đằng nào thì dù cố gắng mấy thì bác cháu ta cũng không thể sớm
thoát thân khỏi đây được rồi. Bác chỉ muốn nói là, nếu cháu có chuyện gấp, thì
cũng không phải là không có biện pháp khẩn cấp.”
Aomame nhíu mày và liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Nàng ngẩng đầu lên
nhìn những chiếc ô-tô xung quanh. Bên phải là một chiếc Mitsubishi Pajero màu
đen phủ một lớp bụi mỏng màu trắng. Anh thanh niên với vẻ buồn chán đang ngồi
hút thuốc lá bên ghế lái phụ, kính xe đang mở. Anh để tóc dài, khuôn mặt rám
nắng, khoác chiếc áo gió màu đỏ sẫm. Trong khoang chứa đồ chất mấy tấm ván lướt
sóng mòn vẹt. Phía trước nữa là một chiếc Saab 900 màu xám, cửa sổ kính màu
đóng im ỉm, không thể nhìn rõ người ngồi bên trong. Thân xe bóng loáng đến nỗi
có thể soi gương được nếu lại gần.
Phía trước chiếc taxi Aomame đang ngồi là một chiếc Suzuki Alto
màu đỏ đeo biển số quận Nerima, có một vết lõm trên thanh chắn bùn phía sau.
Một người mẹ trẻ tì sát người vào tay lái, đứa bé buồn chán đứng trên ghế, vặn
vẹo hết bên này đến bên kia. Bà mẹ dường như đang bực bội nhắc nhở đứa bé.
Aomame có thể thấy môi bà ấy mấp máy. Quang cảnh này cứ y nguyên vậy dễ đã được
mười phút. Trong mười phút này, chiếc xe e rằng không nhích được quá mười mét.
Aomame suy đi tính lại, trong đầu sắp xếp lại mọi thứ theo thứ tự
ưu tiên. Nàng không mất nhiều thời gian để có được kết luận. Lúc này, vừa khéo,
bản nhạc của Janáček cũng đã đến đoạn cuối cùng.
Nàng lấy cặp kính râm nhỏ hiệu Ray-Ban trong túi đen vai ra, rồi
rút trong ví ra ba tờ một nghìn yên. Đưa tiền cho bác lái xe, nàng nói: “Cháu
sẽ xuống xe ở đây thôi. Cháu thật sự không thể đến muộn trong cuộc hẹn này
được.”
Bác lái xe gật đầu và nhận tiền. “Cháu có cần hóa đơn không?”
“Không cần đâu ạ. Bác cũng không cần trả lại tiền thừa đâu.”
“Cám ơn cháu nhiều,” bác nói. “Cẩn thận nhé, hình như gió lớn lắm
đấy. Đừng để bị trượt chân.”
“Cháu sẽ cẩn thận,” Aomame đáp.
“Và, còn nữa,” bác lái xe nhìn vào gương chiếu hậu nói, “hãy nhớ:
sự vật, hiện tượng không giống vẻ bề ngoài của nó đâu.”
Sự vật, hiện tượng không giống vẻ bề ngoài của nó. Aomame lặp lại một lần trong óc, hơi nhướng mày lên, hỏi: “Bác
nói vậy là có ý gì ạ?”
Bác lái xe đắn đo câu chữ rồi trả lời: “Đó chỉ là, giờ cháu sắp đi
làm một việc khác thường. Chẳng phải vậy sao? Giữa ban ngày, trèo xuống
theo lối thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ đô, người bình thường không
làm những chuyện như vậy. Phụ nữ lại càng không.”
“Có lẽ bác đúng”.
“Vậy đấy. Và sau khi làm chuyện gì đó giống như
vậy, những quang cảnh thường ngày cháu nhìn thấy sẽ thay đổi một chút. Sự vật,
hiện tượng có thể hơi khác so
với cái mà cháu từng thấy. Bác cũng đã từng có trải nghiệm như vậy rồi. Nhưng
mà, đừng để những vẻ bề ngoài đánh lừa cháu. Sẽ luôn chỉ có một hiện thực mà
thôi.”
Aomame nghĩ ngợi về những điều bác lái xe vừa nói. Trong lúc nàng
mải suy nghĩ, bản nhạc của Janáček cũng vừa kết thúc và khán giả vỡ òa trong
tiếng vỗ tay không ngớt. Đó có thể là buổi thu thanh trực tiếp. Trong tiếng vỗ
tay nhiệt liệt kéo dài, thoảng còn nghe thấy cả tiếng reo “hoan hô” nữa. Aomame
tưởng tượng ra người nhạc trưởng đang mỉm cười cúi mình mấy lượt trước các khán
giả đang đứng vỗ tay. Ông ngẩng mặt lên, giơ cao tay, bắt tay nghệ sĩ violin
một, rồi xoay lưng về phía khán giả, lại giơ hai cánh tay lên cao khen ngợi
toàn thể dàn nhạc, tiếp đó ông lại quay về phía khán giả, lại cúi mình thật sâu
thêm một lần nữa. Nghe một lúc lâu, dần dần nàng cảm giác đó không phải là
tiếng vỗ tay nữa mà giống như âm thanh dai dẳng không dứt của một trận bão cát
trên sao Hỏa.
“Như bác nói, hiện thực lúc nào cũng luôn chỉ có một mà thôi,” bác
lái xe chầm chậm lặp lại, như thể đang gạch chân đoạn quan trọng trong một cuốn
sách.
“Đương nhiên rồi,” Aomame đáp. Đúng như lời bác lái xe nói. Một
vật thể, trong một thời điểm, chỉ có thể tồn tại ở một địa điểm. Điều này đã
được Einstein chứng minh. Hiện thực bao giờ cũng vô cùng bình tĩnh và vô cùng
cô độc.
Aomame chỉ vào dàn âm thanh trên xe. “Chất lượng âm thanh tốt lắm.”
Bác lái xe gật đầu. “Cái ông viết bản nhạc này tên là gì ấy nhỉ?”
“Janáček.”
“Janáček,” bác lái xe nhắc lại, tựa hồ như đang ghi nhớ một mật mã
quan trọng. Sau đó, ông gạt cái lẫy mở cửa sau. “Hãy cẩn thận nhé,” ông nói,
“bác hy vọng cháu đến kịp giờ hẹn.”
Aomame bước xuống xe, tay nắm chặt quai túi xách đeo vai bằng da
to tướng. Tiếng vỗ tay vẫn vang lên không ngớt. Nàng cẩn thận men theo lề đường
cao tốc về phía chỗ dừng đỗ xe khẩn cấp cách đó chừng mười mét. Mỗi khi làn
đường ngược chiều có xe tải lớn chạy qua, nàng cảm thấy mặt đường lại khe khẽ
rung lên dưới đôi giày cao gót của mình, tựa như những con sóng, như thể nàng
đang bước đi trên mặt boong một chiếc hàng không mẫu hạm đang lênh đênh giữa
biển khơi bão tố.
Cô bé ngồi trên ghế trước của chiếc Suzuki Alto màu đỏ thò đầu ra
khỏi cửa sổ bên ghế phụ, miệng há hốc, nhìn Aomame đi qua. Sau đó, cô bé ngoảnh
lại hỏi mẹ: “Mẹ ơi, cô kia đang làm gì thế? Cô ấy đi đâu thế? Con cũng muốn ra
ngoài và đi cùng. Đi mẹ! Điiiiii!” Nhưng bà mẹ chỉ đáp lại lời năn nỉ bằng sự
im lặng, lắc đầu và liếc nhìn Aomame với ánh mắt trách móc. Lời cầu xin của cô
bé và cái liếc nhìn của người mẹ là những phản ứng ít ỏi mà Aomame tiếp nhận
được. Những người lái xe khác đều chỉ ngồi ở tay lái và hút thuốc, nhìn theo
nàng đang không hề do dự bước đi giữa hàng xe dài dằng dặc và bức rào chắn giữa
hai làn đường, như thể đang nhìn một vật thể gì đó chói mắt. Dường như họ không
nôn nóng phán đoán. Dẫu xe không thể nhúc nhích, nhưng hàng ngày người ta cũng
không thường thấy có người đi bộ trên đường cao tốc Thủ đô, vì vậy cần có thời
gian để tri giác chấp nhận nó như một hiện thực. Và hơn nữa, người đi bộ ấy còn
là một cô gái trẻ mặc váy ngắn, chân đi giày cao gót.
Aomame thu cằm nhìn về phía trước, lưng ưỡn thẳng, bước đi đầy quả
quyết. Đôi giày cao gót hiệu Charles Jourdan màu hạt dẻ gõ xuống mặt đường tạo
nên những âm thanh khô khốc, vạt áo khoác ngoài tung bay trong gió nhẹ. Đã vào
tháng Tư, nhưng vẫn có những gió lạnh, như thể bên trong chúng ẩn chứa một dự
cảm hung bạo. Aoame khoác chiếc áo gió màu be bên ngoài bộ vest dạ mỏng màu
xanh hiệu Junko Shimada. Vai nàng đeo túi da đen, mái tóc xõa ngang vai được
cắt tỉa rất gọn gàng, chăm sóc kỹ lưỡng. Aomame không đeo bất kỳ đồ trang sức
nào. Cao một mét sáu tám, nàng không có lấy một chút thịt thừa. Mọi cơ bắp đều
đã được tập luyện công phu, thế nhưng điều đó đang được ẩn giấu dưới lần áo gió.
Nếu tỉ mỉ quan sát gương mặt nàng từ chính diện, người ta sẽ phát
hiện ra kích cỡ hai tai nàng có sự khác biệt rất lớn. Tái trái to hơn hẳn tai
phải, và hình dạng cũng hơi méo mó. Nhưng không ai để ý đến điều này, vì đôi
tai luôn ẩn trong mái tóc. Cái miệng lúc nào cũng mím chặt thành một đường
thẳng, thể hiện một tính cách không dễ gần. Chiếc mũi nhỏ nhắn, xương gò má hơi
nhô lên, vầng trán rộng, đôi lông mày dài và thẳng, mỗi nét lại thêm một lần bổ
sung cho tính cách ấy. Nhưng gương mặt trái xoan cũng khá cân đối. Tuy rằng sở
thích mỗi người mỗi khác, nhưng về cơ bản có thể nói nàng là một phụ nữ đẹp.
Vấn đề là nét mặt Aomame hầu như không có biểu cảm gì. Cặp môi mím chặt ấy, trừ
trường hợp bất đắc dĩ, còn thì tuyệt đối không hé một nụ cười. Đôi mắt lạnh
lùng và chăm chú như một giám sát viên xuất sắc trên boong tàu. Vì vậy, gương
mặt nàng hoàn toàn không để lại cho người khác một ấn tượng gì rõ rệt. Trong
rất nhiều trường hợp, vẻ tự nhiên và sự lịch lãm trong những cử động của nét
mặt còn thu hút sự chú ý và quan tâm của người khác nhiều hơn sự xấu đẹp của
gương mặt trong trạng thái bất động. Hầu hết mọi người đều không nắm bắt được
tướng mạo của Aomame. Chỉ cần rời ánh mắt di chỗ khác là không thể miêu tả được
gương mặt nàng trông như thế nào nữa. Nói cho đúng, gương mặt của Aomame chắc
chắn là gương mặt có cá tính, nhưng không hiểu sao những đặc trưng của từng chi
tiết lại không hề để lại ấn tượng gì trong tâm trí người khác. Theo nghĩa đó,
nàng giống như một loài côn trùng ngụy trang. Thay đổi màu sắc và hình dạng để
hòa lẫn vào môi trường xung quanh, cố gắng không làm người khác chú ý, không để
người khác có thể dễ dàng nhớ đến mình, đây chính là điều mà Aomame mong muốn.
Từ bé, nàng đã tự bảo vệ mình theo cách ấy.
Nhưng nếu vì lý do nào đó khiến Aomame phải cau mày nhăn mặt, thì
gương mặt lạnh lùng của nàng sẽ thay đổi đột ngột. Cơ mặt sẽ co rúm lại theo
các hướng khác nhau, khiến cho sự méo mó của hai bên má bị cường điệu đến cùng
cực. Những nếp nhăn hằn sau ở nhiều chỗ, đồng tử vội vã thu lại, mũi và miệng
biến dạng một cách thô bạo, cái cằm vẹo đi, môi vểnh lên, để lộ những chiếc răng
to trắng. Ngay lúc ấy, nàng trở thành một con người hoàn toàn khác, như thể
chiếc dây buộc bị đứt làm tuột ra chiếc mặt nạ mà bình thường vẫn che phủ khuôn
mặt nàng. Sự thay đổi đáng bất ngờ này khiến bất kỳ ai chứng kiến cũng cảm thấy
sợ hãi, vì vậy nàng luôn cẩn thận, không bao giờ cau mày trước người lạ. Nàng
chỉ nhăn nhó khi ở một mình, hoặc lúc đe dọa gã đàn ông khiến nàng khó chịu.
Đến được chỗ đỗ xe khẩn cấp, nàng dừng bước và nhìn quanh. Chỉ một
lát sau, nàng đã tìm thấy cái thang thoát hiểm ấy. Đúng như bác lái xe đã nói,
lối vào cầu thang có một hàng rào chắn. Cái hàng rào này cao quá hông một chút,
cửa đang bị khóa chặt. Trèo qua hàng rào sắt này trong khi đang mặc váy ngắn bó
sát người sẽ không thành vấn đề nếu nàng bỏ qua việc đang bị người khác chú ý.
Không chút ngần ngại, nàng tuột đôi giày cao gót ra và nhét vào túi đeo vai.
Nàng có thể làm hỏng mất cái quần tất của mình khi đi chân trần, nhưng nàng có
thể dễ dàng mua lại cái khác.
Mọi người lặng lẽ theo dõi nàng cởi giày cao gót và áo khoác
ngoài. Vẳng ra từ trong cửa sổ để mở của chiếc Toyota Celia màu đen dừng ngay
phía trước, tiếng hát cao vút của Michael Jackson trong bài Billie Jean như đang giúp nàng làm nhạc nền cho
cảnh tượng đó. Nàng thấy mình như thể đang trình diễn một tiết mục múa thoát y
vậy. Thì sao sao? Cứ để họ
ngắm cho thỏa thích. Hẳn họ phải đang mệt mỏi chờ đợi cảnh tắc đường này kết
thúc. Mặc dù vậy, xin lỗi quý vị, hôm nay tôi chỉ cởi bỏ đến đây thôi nhé.
Aomame xốc lại túi lên vai cho khỏi rơi. Chiếc Toyota Crown Royal
Salon nàng vừa ngồi vẫn ở đằng xa, dưới ánh nắng chiếu rực rỡ, tấm kính chắn
gió phản chiếu những tia sáng chói mắt như một tấm gương. Nàng không nhìn rõ
mặt bác lái xe, nhưng nàng biết rằng chắc chắn bác ấy đang nhìn về phía này.
Đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa bạn. Sẽ luôn chỉ có một hiện thực mà
thôi.
Aomame hít vào một hơi dài và sâu, rồi thở ra từ từ. Sau đó, nàng
dỏng tai lắng nghe tiết tấu của Billie Jean, rồi
leo qua hàng rào sắt. Chiếc váy ngắn bị vén lên đến tận hông. Thì sao nào? Cứ cho họ thấy tất cả
những gì họ muốn thấy. Dù nhìn thấy cái bên trong váy, họ cũng đừng mơ nhìn
thấu được con người mình. Dù
sao, đôi chân chính là phần cơ thể khiến Aomame cảm thấy tự hào nhất.
Sang đến bên kia hàng rào sắt, Aomame sửa lại vạt váy, phủi bụi
trên tay, mặc lại áo khoác, đeo lại túi xách qua vai, đẩy gọng kính râm lên một
chút. Cầu thang thoát hiểm đã ở ngay phía trước mặt nàng - một cầu thang sắt
sơn màu ghi. Loại cầu thang đơn giản, thiết thực, rất công hiệu. Nó không được
làm ra để dành cho những người phụ nữ mặc váy ngắn và đi chân trần với độc mỗi
chiếc quần tất. Junko Shimada cũng chẳng thiết kế bộ quần áo này cho Aomame để
leo xuống cầu thang thoát hiểm trên tuyến số ba đường cao tốc Thủ đô của Tokyo.
Một chiếc xe tải cỡ lớn khác đi bên làn xe ngược chiều khiến cầu thang rung lên
bần bật. Gió thổi vù vù qua khe giữa những thanh sắt của chiếc cầu thang. Có
điều, đằng nào thì cầu thang cũng ở đó rồi. Nàng chỉ việc leo xuống phố ở phía
dưới mà thôi.
Aomame ngoảnh đầu lại phía sau một lần cuối, đưa mắt từ trái sang
phải rồi lại từ phải sang trái nhìn hai hàng xe cộ kẹt cứng trên đường cao tốc,
giống như một diễn giả đang đứng trên bục chờ đợi các câu hỏi của thính giả sau
khi vừa kết thúc bài thuyết trình. Từ nãy đến giờ, hàng xe ấy vẫn chưa nhích
thêm được chút nào. Người ta bị kẹt cứng ở đó mà không làm gì được, chỉ biết
quan sát từng động tác nhỏ nhặt nhất của nàng, băn khoăn tự hỏi rốt cuộc người
phụ nữ đang đứng xa xa phía cầu thang kia đang định làm gì. Aomame cúi nhẹ cằm
xuống, cắn môi dưới, đánh giá họ một lượt từ phía sau cặp kính râm màu xanh sẫm.
Các vị không thể bắt đầu tưởng tượng ra tôi là ai, tôi đang đi
đâu, hay đang định làm gì. Aomame thầm nói với họ, đôi
môi không hề mấp máy.
Tất cả các vị đang bị giam cầm ở đây. Các vị không thể tiến lên cũng không thể
rút lui. Nhưng tôi thì không giống quý vị đâu. Tôi có việc cần làm xong. Tôi có
một sứ mệnh cần hoàn thành. Vì vậy, với sự cho phép của các vị, tôi xin đi
trước.
Aomame rất muốn hướng về đám đông ấy mà quắc mắt một cái, nhưng
rồi nàng tự kiềm chế được. Nàng không còn thời gian để làm những chuyện kiểu ấy
nữa. Một khi gương mặt nàng bị biến đổi, sẽ mất nhiều thời gian và nỗ lực để
khôi phục lại được vẻ ban đầu.
Aomame quay lưng với các khán giả câm lặng của mình, sau đó, bước
từng bước cẩn thận, nàng bắt đầu leo xuống cầu thang thoát hiểm, lòng bàn chân
cảm nhận được hơi lạnh thấu xương của sắt thép. Và cơn gió nhẹ đầu tháng Tư làm
mái tóc nàng đung đưa, thi thoảng lại để lộ ra vành tai trái dị dạng của nàng.
* * *